Hiện nay, Hệ thống thông tin điều hành tác nghiệp tác dùng chung của Đảng đã triển khai thực tạo ra nhiều lợi ích, phục vụ đắc lực cho nghiệp vụ văn thư - lưu trữ của Văn phòng Đảng ủy các xã, phường. Tuy nhiên, đề nghị Văn phòng Trung ương Đảng chỉ đạo cơ quan chuyên môn nâng cấp thêm tính năng tự động nhập trích yếu nội dung văn bản vào phần dự thảo văn bản đi (hiện nay khi trình dự thảo văn bản đi phải nhập trích yếu nội dung văn bản bằng tay, rất mất thời gian).
#
Người gửi: Hứa Sĩ Liêm Thời gian gửi: 23/11/2025
Kính đề nghị quý cấp triển khai phòng họp không giấy có tích hợp AI (Lịch họp, tài liệu họp được gửi lên hệ thống, ghi lại cuộc họp, tổng hợp ý kiến cuộc, kết luận cuộc họp....)
#
Người gửi: Huỳnh Sơn Long Thời gian gửi: 17/11/2025
KÍNH GỬI: BAN CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH CHIẾN LƯỢC TRUNG ƯƠNG,
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG,
HỘI ĐỒNG LÝ LUẬN TRUNG ƯƠNG
Tôi xin trân trọng gửi tới Quý Cơ quan kiến nghị sau đây, xuất phát từ quá trình nghiên cứu thực tiễn, tổng hợp kinh nghiệm quốc tế và đặc biệt là quan sát sâu sắc về cấu trúc tư duy – xã hội của người Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới. Mục đích của kiến nghị nhằm góp phần cụ thể hóa tinh thần đổi mới sáng tạo, cải cách thể chế và kiến tạo phát triển theo Nghị quyết 57, đồng thời xây dựng cơ sở lý luận – thực tiễn để hoàn thiện mô hình nhà nước, pháp luật và chiến lược quốc gia trong thời kỳ mới.
I. Sự cần thiết của việc đưa 4 đặc tính tư duy – xã hội vào chiến lược pháp luật và nghị quyết
Qua phân tích và khảo sát thực tiễn tại nhiều địa phương, cộng đồng và lĩnh vực khác nhau, có thể nhận thấy bốn đặc tính cơ bản trong tư duy và tổ chức xã hội của người Việt đang giữ vai trò quyết định đối với sự thành công hoặc thất bại của các chính sách:
Tính cộng đồng và cơ chế bảo vệ lợi ích nhóm
Khả năng linh hoạt – ứng biến trong hành vi và tổ chức
Sự đa dạng sâu sắc giữa các cộng đồng – nghề nghiệp – vùng miền
Cơ chế diễn giải chính sách khác nhau dẫn đến thực thi không đồng nhất
Những đặc tính này vốn tồn tại lâu dài như những “hạ tầng mềm” của đời sống xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay chúng chỉ được thừa nhận một cách rời rạc, chưa trở thành các khái niệm cốt lõi trong hoạch định chính sách, cũng chưa được tích hợp vào quá trình xây dựng luật pháp, nghị quyết hay thiết kế chiến lược quốc gia.
Kết quả là nhiều chính sách dù đúng hướng nhưng khi đi vào thực tế lại gặp phản ứng, bị bóp méo, bị lách hoặc triển khai sai lệch, gây ra những chi phí lớn mà cuối cùng người dân và thị trường là đối tượng chịu thiệt.
II. Kiến nghị đưa 4 đặc tính vào hệ thống chiến lược và pháp luật
Tôi xin kiến nghị Quý Cơ quan xem xét ba định hướng cụ thể:
1. Xây dựng khung lý luận chính thức về 4 đặc tính tư duy – xã hội
Các đặc tính này cần được định danh, định nghĩa và phân tích trong các đề án chiến lược cấp trung ương, tương tự như cách ta đã đưa “văn hóa”, “thể chế”, “lòng dân”, “niềm tin” vào nghị quyết.
Khung lý luận này sẽ làm cơ sở để:
Thiết kế chính sách phù hợp với tâm lý cộng đồng Việt Nam.
Tránh các mô hình áp đặt, máy móc, gây phản tác dụng.
Tạo nền tảng khoa học cho việc dự báo phản ứng xã hội.
2. Thể chế hóa thành nguyên tắc cốt lõi trong xây dựng pháp luật và nghị quyết
Đề nghị nghiên cứu bổ sung vào các quy trình lập pháp những nguyên tắc mới, bao gồm:
Nguyên tắc đồng nhất cách hiểu chính sách: tránh diễn giải lệch giữa các cấp.
Nguyên tắc linh hoạt trong thực thi nhưng trong giới hạn rõ ràng: “không bóp chết linh hoạt, nhưng không tạo ra tùy tiện”.
Nguyên tắc tham vấn đa cộng đồng: phản ánh đúng sự đa dạng của người Việt.
Nguyên tắc bảo vệ niềm tin cộng đồng: tránh tạo sốc chính sách.
Những nguyên tắc này sẽ giúp luật pháp và nghị quyết đi vào đời sống một cách tự nhiên và bền vững hơn.
3. Xác lập bản sắc chính trị – kinh tế Việt Nam trong thời kỳ mới
Việc nhận diện đúng bốn đặc tính cốt lõi cho phép chúng ta xây dựng một bản sắc chính trị – kinh tế đặc thù Việt Nam, phù hợp với bối cảnh toàn cầu biến động:
Một mô hình quản trị dựa trên đồng kiến tạo, không áp đặt tuyến tính.
Một hệ thống pháp luật có khung minh bạch – cách hiểu thống nhất – thực thi linh hoạt.
Một cấu trúc phát triển kinh tế – xã hội ứng dụng năng lực thích ứng của người Việt, nhưng có kỷ luật và trật tự.
Điều này phù hợp hoàn toàn với tinh thần Nghị quyết 57 về đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, đổi mới thể chế và xây dựng con người Việt Nam thời kỳ mới.
III. Kết luận
Việc đưa 4 đặc tính tư duy – xã hội này vào chiến lược quốc gia không chỉ giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật, nghị quyết, mà quan trọng hơn, tạo ra sự tương thích giữa bản sắc con người Việt Nam và mô hình phát triển mới. Khi tư duy chính sách được điều chỉnh để phù hợp với đặc điểm dân tộc, chúng ta sẽ giảm được rủi ro chính sách, tăng tính đồng thuận, cải thiện hiệu quả thực thi, và xây dựng một nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững.
Tôi kính mong Quý Cơ quan xem xét, nghiên cứu và đưa vấn đề này vào chương trình xây dựng chiến lược trung hạn và dài hạn của Đảng.
Xin trân trọng cảm ơn.
#
Người gửi: TRƯƠNG NAM THUẬN Thời gian gửi: 17/11/2025
- Mục đích: Số hóa 100% biểu mẫu, phiếu đánh giá, báo cáo tổng hợp theo Quy định 124-QĐ/TW và Hướng dẫn 21-HD/BTCTW; Tạo lập cơ sở dữ liệu thống nhất, kết nối từ chi bộ tới tỉnh, phục vụ tổng hợp tự động theo tháng, quý, năm.
- Lý do: Hiện nay việc đánh giá đảng viên vẫn sử dụng nhiều biểu mẫu giấy, dẫn tới sai sót, tốn thời gian và khó lưu trữ lâu dài; Chưa có hệ thống dữ liệu tập trung, dẫn đến việc thống kê, báo cáo thủ công, thiếu tính liên thông giữa các cấp; Việc bổ sung phân hệ này sẽ giúp chuẩn hóa quy trình, nâng cao tính chính xác, khách quan trong đánh giá đảng viên hằng năm.
#Thủ tục hành chính và quy trình triển khai KH, CN, ĐMST và CĐSQG
Người gửi: Nguyễn Thìn Bằng Thời gian gửi: 14/11/2025
Thực trạng bất cập trong quá trình triển khai Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị và Quy chế 03 của Văn phòng Trung ương
Mặc dù Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đã khẳng định vai trò trọng tâm của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong phát triển quốc gia, và Quy chế số 03-QC/VPTW đã quy định rõ quy trình tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị, sáng kiến của các tổ chức, cá nhân, song thực tế quá trình triển khai hiện nay đang bộc lộ những bất cập có tính hệ thống. Ba nhóm tình trạng điển hình dưới đây cho thấy sự lệch pha giữa tinh thần của Nghị quyết và cách thức vận hành của bộ máy thực thi.
1. Tình trạng thứ nhất: Chậm tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị — vi phạm thời hạn quy chế
Trong nhiều trường hợp, các kiến nghị và đề xuất đã được người dân hoặc các tổ chức gửi đầy đủ hồ sơ, nêu rõ nội dung, căn cứ và đề xuất cụ thể, nhưng vẫn không được tiếp nhận xử lý đúng thời hạn theo Quy chế 03. Có trường hợp đã quá gần một tháng kể từ ngày gửi, nhưng Bộ hoặc cơ quan chủ quản vẫn chưa có phản hồi hoặc thông báo trạng thái xử lý trên hệ thống.
Điều này thể hiện vi phạm trực tiếp quy định về thời hạn xử lý phản ánh, kiến nghị theo Quy chế 03, đồng thời phản ánh tình trạng thiếu cơ chế giám sát, nhắc nhở và kiểm soát tiến độ nội bộ giữa Văn phòng Trung ương, các Bộ, ngành và đơn vị thực hiện.
Việc chậm trễ này không chỉ làm mất hiệu lực thời gian của sáng kiến, mà còn gây tâm lý nản lòng cho người phản ánh, đi ngược lại tinh thần “khuyến khích đổi mới sáng tạo từ cơ sở” mà Nghị quyết 57 đề ra. Cụ thể ví dụ mã phản ánh kiến nghị 2025_SKGP_0917191752245 - Từ ngày 17 tháng 09 đến ngày hôm nay là 13 tháng 11 vẫn chưa được tiếp nhận.
2. Tình trạng thứ hai: Phản hồi chung chung, không rõ yêu cầu và nội dung cần làm rõ
Một số phản hồi từ cơ quan được giao xử lý có nội dung mơ hồ, không cụ thể, chỉ nêu chung rằng “đề nghị bổ sung thông tin”, nhưng không nêu rõ cần bổ sung phần nào, ở mức độ nào, theo tiêu chí gì.
Hậu quả là người phản ánh không biết:
Cần làm rõ nội dung chuyên môn nào (kỹ thuật, pháp lý hay chính sách);
Phần nào là trách nhiệm nghiên cứu, làm rõ của Bộ, phần nào là nghĩa vụ bổ sung của người kiến nghị;
Bộ cần dữ liệu, lập luận hay tài liệu minh chứng gì để hoàn thiện hồ sơ.
Tình trạng này cho thấy thiếu quy chuẩn về nội dung phản hồi và phân định trách nhiệm hai chiều. Nhiều trường hợp, cơ quan phản hồi chuyển ngược gánh nặng nghiên cứu và làm rõ về cho người kiến nghị, dù đó là phần việc thuộc chuyên môn quản lý nhà nước của Bộ.
Kết quả là người phản ánh không thể đáp ứng đúng yêu cầu, trong khi Bộ lại cho rằng hồ sơ chưa đủ điều kiện xem xét, tạo ra một vòng lặp bế tắc trong thực thi quy chế. Ví dụ cụ thể là mã phản ánh số 2025_SKGP_0926220044351 - Ngày gửi là 26 tháng 09 cho đến ngày 12 tháng 11 mới tiếp nhận và yêu cầu bổ sung thông tin với ghi chú : Đơn vị đã tiếp nhận những ý kiến góp ý ! Vậy thì tiếp nhận rồi sao lại còn yêu cầu bổ sung thông tin, yêu cầu bổ sung thông tin gì, ở đâu, cụ thể ra sao, rất chung chưng, mơ hồ !!!!
3. Tình trạng thứ ba: Phân tán đầu mối xử lý, thiếu cơ quan chủ trì tổng hợp
Nhiều nội dung phản ánh, kiến nghị sau khi được tiếp nhận đã không được cơ quan chủ quản trực tiếp xử lý, mà phân phối xuống các sở, ngành hoặc đơn vị chuyên môn cấp dưới.
Thay vì Bộ hoặc cơ quan đầu mối chủ trì, tổng hợp và chịu trách nhiệm chính trong việc phản hồi, hệ thống lại chuyển hồ sơ cho nhiều đầu mối khác nhau cùng tham gia xử lý. Mỗi đơn vị phản hồi theo cách hiểu riêng, với thời gian, góc nhìn và mức độ chi tiết khác nhau.
Cơ quan chủ trì chỉ dừng lại ở việc báo cáo tình trạng xử lý lên hệ thống, mà không trực tiếp liên lạc hoặc hỗ trợ người phản ánh trong quá trình giải quyết. Điều này dẫn đến:
Nội dung kiến nghị bị phân mảnh, mất mạch logic ban đầu;
Không có đầu mối tổng hợp cuối cùng để trả lời thống nhất;
Thời gian xử lý bị kéo dài, trách nhiệm tập thể bị pha loãng;
Không có sự đồng hành giữa cơ quan quản lý và người đề xuất sáng kiến. Ví dụ mã phản ánh số 2025_PAKN_1029152420779- xử lý rất nhanh. Nhưng văn bản trả lời lại chuyển tất cả đầu mối các sở nghành để làm việc với công dân kiến nghị, tổng hợp để Sở KHCN báo cáo với Ban chỉ đạo. Trong khi tinh thần nghị quyết 57 rất rõ ràng về cách thức xử lý vấn đề, sở làm đầu mối, chủ trì, làm việc với các sở nghành khác, để tổng hợp, trả lời nội dung kiến nghị của công dân thì lại đẩy hết các đầu mối để công dân tự làm việc !
4. Cơ sở pháp lý và khoa học của các bất cập trên
Về pháp lý, Quy chế 03 của Văn phòng Trung ương đã quy định rõ: các cơ quan được giao xử lý phản ánh, kiến nghị phải tiếp nhận, phân loại, phản hồi trong thời hạn cụ thể, đồng thời báo cáo kết quả và trách nhiệm xử lý lên hệ thống điều phối trung ương. Tuy nhiên, chưa có cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm quy chế một cách rõ ràng, nên quy định trở nên hình thức.
Về tổ chức, mô hình hiện nay vẫn là hành chính phân tán theo ngành dọc, trong khi Nghị quyết 57 yêu cầu điều phối liên ngành và đổi mới sáng tạo theo hệ sinh thái. Việc phân tán đầu mối khiến không có cơ quan “chủ quản về nội dung đổi mới sáng tạo” để gắn kết các phản ánh thành một bức tranh tổng thể.
Về khoa học quản trị, đây là biểu hiện của sự thiếu năng lực điều phối (coordination deficit) trong hệ thống hành chính: mỗi đơn vị thực hiện đúng phần việc của mình, nhưng không có cơ chế học hỏi và tổng hợp liên thông. Hệ thống trở thành một tập hợp quy trình độc lập, không hình thành được dòng chảy thông tin hai chiều giữa người dân và Nhà nước.
5. Hệ quả của thực trạng
Nếu các bất cập trên tiếp tục kéo dài, sẽ phát sinh những hệ quả sâu rộng:
Làm mất niềm tin của người dân và giới khoa học – doanh nghiệp vào cơ chế tiếp nhận sáng kiến, khiến hệ thống phản ánh – kiến nghị trở thành hình thức.
Làm chậm tiến độ thực hiện Nghị quyết 57, vì các sáng kiến cụ thể từ cơ sở – vốn là “nguồn sống” của đổi mới sáng tạo – không được xử lý kịp thời và đúng trọng tâm.
Giảm hiệu lực chính trị của Quy chế 03, khiến quy trình được quy định rõ nhưng không được thực thi thực chất.
Phá vỡ mối liên thông giữa trung ương và địa phương, khi người dân không nhận được phản hồi thống nhất, còn cơ quan trung ương không thu được thông tin thực tiễn để hoàn thiện chính sách.
Ba tình trạng nêu trên cho thấy sự đứt gãy giữa tinh thần chính trị của Nghị quyết 57 và cơ chế hành chính thực thi Quy chế 03. Đây không chỉ là lỗi kỹ thuật, mà là vấn đề về phương pháp quản lý và tổ chức điều phối chính sách.
Để khắc phục, cần sớm xác lập một đầu mối điều phối thống nhất – ví dụ Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM ở cấp địa phương, hoặc một đơn vị chuyên trách ở cấp Bộ – có trách nhiệm tổng hợp, phản hồi, theo dõi và hỗ trợ người phản ánh, sáng kiến đến cùng, đảm bảo hệ thống không chỉ vận hành đúng quy trình, mà thực sự khuyến khích và giải phóng tiềm năng đổi mới từ xã hội. I. Cơ sở của kiến nghị
Cơ sở chính trị – pháp lý
Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã xác định khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực trung tâm cho phát triển quốc gia. Quy chế số 03-QC/VPTW quy định Văn phòng Trung ương Đảng và các cơ quan liên quan có trách nhiệm tổ chức tiếp nhận, tổng hợp, xử lý, phản hồi kịp thời các sáng kiến, phản ánh, kiến nghị của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài hệ thống chính trị.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực tế, còn thiếu các quy định cụ thể về đầu mối, phương pháp phối hợp, quy trình hỗ trợ người kiến nghị và cơ chế giám sát trách nhiệm của cơ quan chủ trì.
Cơ sở thực tiễn
Thực tế thời gian qua cho thấy ba nhóm vướng mắc chủ yếu:
(1) Một số bộ, ngành tiếp nhận kiến nghị nhưng không xử lý đúng thời hạn quy định, không có thông tin phản hồi, vi phạm Quy chế 03 mà chưa có chế tài hoặc cơ chế nhắc nhở.
(2) Nhiều phản hồi mang tính hình thức, chung chung, không chỉ rõ nội dung cần làm rõ, mức độ thông tin, hoặc trách nhiệm thuộc về bên nào. Điều này khiến người gửi kiến nghị không hiểu cần hoàn thiện gì, dẫn đến bế tắc trong đối thoại chính sách.
(3) Một số nội dung sau khi tiếp nhận lại bị phân tán về nhiều sở, ngành cùng lúc, không có đầu mối chủ trì thực sự chịu trách nhiệm theo dõi, tổng hợp và trả lời chính thức. Cơ quan chủ trì không cử cán bộ trực tiếp đồng hành, khiến quá trình xử lý bị manh mún, chậm trễ và sai trọng tâm của đề xuất.
Cơ sở khoa học và quản trị
Theo nguyên lý của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia (National Innovation System), cơ chế điều phối phải được tập trung theo đầu mối, bảo đảm dòng thông tin hai chiều giữa người phản ánh – cơ quan xử lý – cơ quan tổng hợp – lãnh đạo hệ thống. Việc thiếu đầu mối chịu trách nhiệm dẫn đến “điểm mù chính sách”, gây mất niềm tin, làm suy giảm năng lực đổi mới thực tiễn của xã hội – vốn là mục tiêu trung tâm mà Nghị quyết 57 đề ra. II. Nội dung kiến nghị cụ thể
Bổ sung quy định về đầu mối chủ trì
Mỗi bộ, ngành, địa phương phải chỉ định một cơ quan chủ trì duy nhất trong việc tiếp nhận và xử lý phản ánh, kiến nghị, sáng kiến thuộc phạm vi khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Đối với cấp địa phương, kiến nghị giao Sở Khoa học và Công nghệ là đầu mối duy nhất, chịu trách nhiệm tổng hợp, phân tích, điều phối xử lý và phản hồi đến người kiến nghị, kể cả khi nội dung liên quan đến các lĩnh vực khác như xây dựng, quy hoạch, nông nghiệp, tài chính, môi trường...
Các sở, ngành liên quan chỉ thực hiện vai trò phối hợp chuyên môn, không trực tiếp làm việc riêng rẽ với người kiến nghị, tránh tình trạng phân mảnh, chồng chéo.
Bổ sung cơ chế “đi cùng công dân”
Yêu cầu cơ quan chủ trì phải phân công cán bộ phụ trách từng hồ sơ kiến nghị cụ thể, có trách nhiệm liên hệ, trao đổi, hướng dẫn và đồng hành với người gửi kiến nghị trong suốt quá trình làm rõ nội dung và tổ chức thực hiện.
Cơ quan chủ trì không chỉ “chuyển đơn – nhận phản hồi” mà phải thực hiện vai trò hỗ trợ chính sách, giúp sáng kiến có cơ hội được phát triển thành dự án, đề án hoặc mô hình thí điểm trong thực tế.
Cụ thể hóa trách nhiệm phản hồi và thời hạn xử lý
Mỗi kiến nghị, phản ánh phải được phản hồi bằng văn bản chính thức qua hệ thống, ghi rõ:
Nội dung đã được tiếp nhận;
Cơ quan chủ trì và cán bộ phụ trách;
Thời hạn dự kiến xử lý;
Yêu cầu bổ sung thông tin (nếu có), kèm mô tả rõ ràng nội dung cần làm rõ, căn cứ và mục đích.
Nếu quá hạn mà chưa có phản hồi hoặc phản hồi không đạt yêu cầu, hệ thống phải tự động nhắc nhở và công khai tình trạng xử lý, đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm.
Thiết lập cơ chế tổng hợp định kỳ và học tập chính sách ngược
Hằng quý, Văn phòng Trung ương Đảng tổng hợp các kiến nghị, phản ánh tiêu biểu, phân loại theo nhóm lĩnh vực và gửi báo cáo tới Bộ Chính trị, Ban Kinh tế Trung ương, Bộ Khoa học và Công nghệ để rút kinh nghiệm, cập nhật chính sách và định hướng lại ưu tiên nghiên cứu, thử nghiệm, hỗ trợ đổi mới sáng tạo.
Cơ chế này không chỉ xử lý phản ánh mà còn chuyển hóa kiến nghị thành nguồn dữ liệu chính sách quý giá, phản ánh năng lực sáng tạo từ cơ sở. Mục tiêu của kiến nghị
Bảo đảm người dân, doanh nghiệp, chuyên gia có thể tham gia thật sự vào tiến trình đổi mới chính sách khoa học và công nghệ.
Tăng tính trách nhiệm và minh bạch của cơ quan nhà nước, chuyển từ cách làm hành chính sang mô hình đồng hành, hỗ trợ, thúc đẩy đổi mới.
Góp phần xây dựng văn hóa làm việc của hệ thống đổi mới sáng tạo Việt Nam, nơi mọi ý tưởng đều được lắng nghe, xử lý đúng trọng tâm, có người chịu trách nhiệm đến cùng và có khả năng đi vào thực tiễn.
#
Người gửi: TRƯƠNG NAM THUẬN Thời gian gửi: 13/11/2025
Làm thế nào để xây dựng và triển khai hiệu quả cơ chế phổ cập khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn vùng có đồng bào dân tộc thiểu số ở xã Bình Phú hiện nay ?
#Cơ chế phổ cập KH, CN, ĐMST và CĐS tại vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn
Người gửi: Nguyễn Công Bằng Thời gian gửi: 12/11/2025
1. Cơ sở thực tiễn sâu sắc
Áp lực lịch sử và ràng buộc pháp lý tạo ra tư duy quản lý cũ
Từ sau cải cách hành chính và tổ chức chính quyền cơ sở, phường/xã vẫn chịu áp lực số liệu, chỉ tiêu, báo cáo cho cấp trên.
Mọi sáng kiến hay hoạt động đều bị định lượng bằng “đã làm bao nhiêu”, thay vì “tác động ra sao”.
Thực tế: cán bộ cơ sở phải phân bổ thời gian cho thủ tục hành chính, báo cáo, kiểm tra giấy tờ, dẫn đến thiếu thời gian và năng lực để khai thác nhu cầu thực tế của người dân và doanh nghiệp.
Nguồn lực địa phương chưa được khai thác và kết nối
Người dân có kỹ năng, doanh nghiệp có vốn, hợp tác xã có kinh nghiệm nghề nghiệp, nhưng tất cả hoạt động tách rời, không có đầu mối điều phối.
Thực tế: một hộ dân muốn cải tạo sân chơi cộng đồng phải liên hệ nhiều cơ quan; doanh nghiệp muốn hợp tác với địa phương để tạo việc làm cho thanh niên gặp quá nhiều rào cản về thủ tục, giấy phép, thông tin thiếu minh bạch.
Hệ quả: nguồn lực sẵn có bị lãng phí, sáng kiến mới khó triển khai, người dân và doanh nghiệp cảm thấy phường/xã không phải là đối tác đồng hành mà là rào cản.
Phong trào và chiến dịch mang tính hình thức, thiếu trọng tâm đời sống
Các chương trình văn hóa – xã hội, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự thường được thiết kế theo kế hoạch định sẵn, tập trung vào hình ảnh, buổi lễ, báo cáo thành tích.
Thực tế: ra quân vệ sinh, tổ chức lớp tuyên truyền, gắn với các ngày lễ, nhưng sau đó không duy trì, không đo lường kết quả, khiến tác động tới chất lượng đời sống dân cư hầu như không bền vững.
Mối quan hệ giữa phường/xã và người dân, doanh nghiệp còn xa cách
Người dân nhìn phường/xã như cơ quan hành chính thụ động, xử lý khiếu nại, cấp phép, kiểm tra.
Doanh nghiệp nhìn phường/xã như cơ quan ràng buộc thủ tục, khó tiếp cận thông tin, thiếu hỗ trợ để phát triển bền vững.
Cán bộ phường/xã tự nhìn mình như quản lý hành chính, tuân thủ chỉ tiêu, chưa hình dung vai trò trung tâm điều phối, đồng hành, kiến tạo phát triển.
Thiếu dữ liệu thực và cơ chế đánh giá kết quả theo chất lượng sống
Các chỉ số hiện nay chủ yếu là đầu ra (output): số buổi, số người tham gia, số hộ hưởng lợi hình thức.
Thiếu chỉ số đầu ra thực chất (outcome): người dân có thay đổi hành vi, chất lượng môi trường cải thiện, mức sống nâng cao, sinh kế bền vững…
Hậu quả: mọi quyết định dựa trên cảm tính hoặc áp lực hình thức, khó xác định hiệu quả chiến lược dài hạn. 2. Lý do cần thiết xây dựng triết lý phát triển bám sát Nghị quyết 57
Chuyển đổi vai trò phường/xã từ quản lý sang đồng hành – kiến tạo
Thực tiễn cho thấy, nếu vẫn vận hành theo tư duy hành chính cũ, nguồn lực địa phương và sáng kiến của dân – doanh nghiệp sẽ không được phát huy.
Triết lý mới giúp phường/xã làm trung tâm kết nối, khai thác nguồn lực, đồng hành với dân và doanh nghiệp, thúc đẩy sáng tạo và phát triển thực chất.
Tăng cường sự tham gia của người dân và doanh nghiệp
Nghị quyết 57 nhấn mạnh phát triển dựa trên nguồn lực địa phương, xây dựng chính quyền phục vụ và kiến tạo.
Triết lý mới sẽ biến phường/xã từ đơn vị hành chính thành không gian hợp tác, nơi người dân và doanh nghiệp cùng tham gia giải quyết vấn đề thực tế, thay vì chỉ là nơi bị quản lý.
Tích hợp và điều phối liên ngành, nâng cao hiệu quả thực tế
Thực tiễn cho thấy các tổ chức đoàn thể, phòng ban hoạt động tách rời, không tạo ra tác động cộng hưởng.
Triết lý bám sát Nghị quyết 57 giúp thiết lập kế hoạch hành động tổng thể, mỗi hoạt động là một mắt xích trong chuỗi nâng cao chất lượng đời sống, an ninh, môi trường, sinh kế và văn hóa cộng đồng.
Đảm bảo phát triển bền vững và khả năng thích ứng
Khi mọi hoạt động được đo bằng tác động thực chất, phường/xã có thể điều chỉnh linh hoạt, ưu tiên giải pháp hiệu quả, tối đa hóa nguồn lực.
Giúp địa phương không chỉ giải quyết vấn đề trước mắt, mà xây dựng hệ thống phát triển bền vững, đúng tinh thần Nghị quyết 57. Cơ sở thực tiễn sâu sắc: phường/xã hiện nay chịu áp lực hình thức, thiếu liên kết, chưa khai thác được nguồn lực địa phương, người dân và doanh nghiệp nhìn phường/xã chưa phải là đối tác đồng hành, dữ liệu và đánh giá kết quả còn hạn chế.
Lý do cần triết lý mới: để chuyển đổi từ quản lý hành chính sang đồng hành – sáng tạo – phát triển, khai thác tối đa nguồn lực địa phương, tạo tác động thực chất, tích hợp liên ngành, nâng cao chất lượng đời sống, sinh kế, cộng đồng. 1. Cơ sở pháp lý cụ thể
Luật Tổ chức Chính quyền địa phương số 65/2025/QH15 (có hiệu lực từ 16/6/2025) quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp xã và phường.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
+1
Ví dụ: Điều 21 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp xã; Điều 22 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã.Nghị quyết 57 của Bộ Chính Trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Văn bản hành động triển khai như Nghị quyết 03/NQ‑CP của Chính phủ để thực hiện Nghị quyết 57. Những văn bản này tạo khung pháp lý để cấp xã/phường có thể tham gia trong chiến lược phát triển – đặc biệt trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số – tuy nhiên, vẫn còn khoảng trống khi ứng dụng vào thực tiễn phát triển cấp cơ sở. 2. Những điểm yếu về tư duy và phương pháp hoạch định
Dưới đây là các điểm yếu cụ thể:
Tư duy quản lý hành chính nhiều hơn tư duy phát triển
Mặc dù Luật 65/2025/QH15 mở rộng nhiệm vụ cấp xã/phường nhưng thực tiễn nhiều nơi vẫn vận hành theo cách chủ yếu “quản lý, cấp phép, kiểm tra” thay vì “đồng hành, sáng tạo và phát triển”. Cấp xã/phường chưa được đặt ngang vai “điều phối phát triển địa phương” mà vẫn giữ nhiều vai trò truyền thống.
Phương pháp hoạch định mang tính dự phòng và ngành dọc
Kế hoạch cấp xã/phường thường dựa vào chỉ tiêu đầu vào (số buổi ra quân, số người tuyên truyền) thay vì chỉ tiêu kết quả thực tế (người dân thay đổi hành vi, doanh nghiệp tham gia phát triển, sinh kế tăng lên). Do đó, việc triển khai chưa gắn chặt với nguồn lực địa phương và đổi mới sáng tạo như Nghị quyết 57 đòi hỏi.
Thiếu cơ chế chủ động, linh hoạt và liên ngành
Mặc dù Nghị quyết 57 nêu rõ phải “loại bỏ tư duy ‘không quản được thì cấm’” và hoàn thiện thể chế để khuyến khích đổi mới sáng tạo.Nhưng ở cấp xã/phường vẫn còn rào cản: thẩm quyền ít, thủ tục hành chính nhiều, phối hợp ngành bị giới hạn; dẫn tới mô hình phát triển thiếu linh hoạt và chậm trễ.
Thiếu hệ thống dữ liệu và đánh giá theo kết quả phát triển địa phương
Luật đã quy định nhiệm vụ và quyền hạn nhưng chưa yêu cầu rõ cấp xã/phường phải xây dựng và công bố chỉ số chất lượng sống, chỉ số đổi mới sáng tạo địa phương. Điều này dẫn đến việc phát triển theo cảm tính, ít khả năng điều chỉnh kịp thời và minh bạch với người dân.
Kế hoạch chiến lược của cấp xã/phường còn bị “áp đặt từ trên xuống” nhiều hơn là phát sinh từ nhu cầu và nguồn lực địa phương
Nghị quyết 57 yêu cầu “người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực và động lực chính”. Thực tiễn nhiều xã/phường vẫn thiếu cơ chế tham gia thực chất của người dân và doanh nghiệp trong hoạch định và thực thi. Mặc dù đã có khung pháp lý và chiến lược lớn hướng tới đổi mới (qua Luật 65/2025/QH15, Nghị quyết 57…), nhưng cấp phường/xã hiện tại vẫn chưa thực sự phù hợp với yêu cầu mới: cần từ quản lý hành chính chuyển sang điều phối phát triển, từ chỉ tiêu đầu vào chuyển sang kết quả thực tế, từ làm riêng ngành sang phối hợp liên ngành, từ triển khai theo khuôn mẫu xuống theo nguồn lực địa phương.
Để các xã, phường thực hiện chiến lược tăng trưởng mới hiệu quả, cần:
Tái định vị vai trò cấp cơ sở trong luật và chính sách;
Xây dựng phương pháp lập kế hoạch và đánh giá mới, gắn với đổi mới sáng tạo và nguồn lực địa phương;
Tăng thẩm quyền, linh hoạt và phối hợp liên ngành;
Tạo dữ liệu minh bạch, chỉ số phát triển địa phương, người dân – doanh nghiệp tham gia thực chất. I. Những điểm nghẽn trong cấu trúc phường/xã hiện nay
Vai trò chưa rõ, động lực hạn chế
Phường/xã thường được nhìn như một “cánh tay hành chính” của cấp trên, thực hiện chủ yếu các nhiệm vụ quản lý (“phát giấy phép”, “thu hồ sơ”, “kiểm tra trật tự”) hơn là làm chủ địa bàn.
Do vậy, chức năng “phát triển” – “điều phối”, “kiến tạo” gần như bị mờ nhạt; người dân và doanh nghiệp thường nhìn phường/xã là nơi phải “xin – chờ” hơn là nơi “đồng hành – hỗ trợ”.
Việc cán bộ phường/xã chủ yếu tập trung vào chỉ tiêu hành chính, báo cáo cấp trên, ít có điều kiện và động lực để đổi mới hoặc tương tác sâu với doanh nghiệp, người dân.
Tổ chức bộ máy ngành dọc chuyền thống gây chồng chéo và thiếu linh hoạt
Cấu trúc “phòng/văn phòng theo ngành” (địa chính, tư pháp, văn hóa – xã hội, lao động – thương binh – xã hội…) dẫn tới mỗi phòng ban lo phần việc của mình, ít có phối hợp xuyên ngành.
Như bạn đã chỉ ra: mỗi đoàn thể, mỗi ban ngành làm một phong trào riêng; kết quả là người dân bị quá tải bởi nhiều hoạt động nhỏ lẻ, thiếu tính tổng thể.
Bộ máy hành chính truyền thống đôi khi thiếu khả năng chủ động, sáng tạo, vì nhiều quyết định phải chờ cấp trên, hoặc chồng chéo thẩm quyền.
Cơ chế pháp lý – trách nhiệm – đầu mối thực thi bị bó buộc
Phường/xã thường chịu trách nhiệm nhưng ít có quyền chủ động – ví dụ: hạn chế trong việc huy động nguồn lực, ký kết hợp tác với doanh nghiệp, hoặc thí điểm chính sách mới.
Do đó, người dân và doanh nghiệp có thể nhìn phường/xã như “văn phòng hành chính” hơn là “đối tác phát triển”.
Cán bộ phường/xã có thể tự nhìn mình là “người thực thi chỉ đạo”, không phải “người dẫn dắt phát triển”.
Sự “xa dân” trong thực tiễn – thiếu gắn kết với đời sống và doanh nghiệp
Khi phường/xã hoạt động chủ yếu theo chỉ tiêu hành chính, người dân và doanh nghiệp khó thấy được vai trò hỗ trợ thiết thực: như hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, kết nối sinh kế, tạo không gian kinh tế địa phương…
Kết quả là phường/xã đôi khi bị xem là “nơi xin – làm thủ tục” hơn là “nơi đồng hành”, khiến niềm tin và sự hợp tác từ cộng đồng bị yếu. II. Vai trò, mục tiêu chính trị và triết lý vận hành của cấp phường/xã
1. Vai trò chính trị
Phường/xã là đơn vị hành chính cơ sở, gần dân nhất, nơi “tiến hành quyền lực nhà nước và phục vụ nhân dân”.
Trong hệ thống chính quyền, phường/xã là nơi triển khai chính sách, giải quyết vấn đề cụ thể trong đời sống nhân dân, từ quản lý đô thị, môi trường, dân cư, đến phát triển kinh tế địa phương.
Phường/xã cũng có vai trò chính trị – xã hội trong việc thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển địa phương, tăng cường quản trị, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số.
2. Mục tiêu chính
Đảm bảo pháp quyền, trật tự, an toàn xã hội tại khu vực dân cư.
Cung cấp dịch vụ công cơ bản và thiết yếu cho người dân – quản lý hành chính, cấp giấy phép, hỗ trợ dân cư.
Tăng cường phát triển kinh tế – xã hội địa phương, nâng cao đời sống người dân, hỗ trợ doanh nghiệp, thúc đẩy sinh kế.
Xây dựng chính quyền gần dân, vì dân, tăng niềm tin cộng đồng và phục vụ nhân dân tốt hơn.
Gắn với mục tiêu đổi mới thể chế, tinh gọn bộ máy, phân cấp – phân quyền mạnh hơn cho chính quyền cơ sở.
3. Triết lý vận hành
Phường/xã theo triết lý cần “gần dân – sát dân – đồng hành với dân”. Cụ thể:
Phường/xã không chỉ “quản lý dân cư” mà là “đi cùng dân cư”, lắng nghe, hỗ trợ, để dân tham gia và đồng kiến tạo.
Kinh tế tư nhân, cộng đồng dân cư, tổ chức xã hội không chỉ ngoài, mà là đối tác của phường/xã.
Mọi hoạt động của phường/xã không chỉ để “hoàn thành nhiệm vụ giao” mà để tạo ra giá trị thực cho người dân – doanh nghiệp: môi trường sống tốt hơn, việc làm tốt hơn, cộng đồng gắn kết hơn.
Vận hành theo nguyên tắc: minh bạch – trách nhiệm – hiệu quả, gắn với dữ liệu, giám sát từ cộng đồng và phản hồi nhanh. IV. Cách nhìn từ ba phía – người dân, doanh nghiệp, chính quyền phường/xã
Người dân nhìn phường/xã: thường xem phường/xã như nơi giải quyết thủ tục hành chính, hỗ trợ giấy tờ, kiểm tra trật tự – chứ ít khi nhìn như “đối tác phát triển” hoặc “đồng hành” trong việc tạo sinh kế, không gian sống, sáng kiến cộng đồng. Khi các hoạt động chỉ dừng lại ở lễ ra quân, hình ảnh, thì niềm tin người dân có thể suy giảm.
Doanh nghiệp nhìn phường/xã: doanh nghiệp nhỏ hoặc start‑up tại địa phương có thể nhìn phường/xã như “cửa ải thủ tục” hơn là “cửa mở hợp tác” – nếu phường/xã thiếu cơ chế khuyến khích, hỗ trợ, kết nối với kinh tế tư nhân.
Chính quyền phường/xã nhìn mình: trong nhiều trường hợp, phường/xã vẫn tự hình dung mình là “đơn vị quản lý, điều hành theo sự chỉ đạo cấp trên”, hơn là “trung tâm phát triển địa phương”. Điều này dẫn đến tư duy “chấp hành nhiệm vụ” hơn “đi tìm nhu cầu dân – doanh nghiệp và đồng kiến tạo giải pháp”. Để phường/xã thực sự vận hành theo tinh thần đổi mới, kết nối công – tư – cộng, mô hình mới cần được định vị rõ ràng trong các mắt nhìn khác nhau, từ người dân, doanh nghiệp, tổ chức nội bộ, đến cấp quản lý cấp tỉnh, trung ương. 1. Trong mắt người dân – phường/xã là đối tác đồng hành, trung tâm phát triển đời sống
Phường/xã không chỉ là nơi giải quyết thủ tục mà là nơi lắng nghe, đồng hành và tạo điều kiện để người dân cùng kiến tạo đời sống của mình.
Người dân nhìn vào các chương trình, dự án và hoạt động cộng đồng, thấy rằng:
Mọi kế hoạch đều gắn với nhu cầu thực tế: vệ sinh môi trường, an ninh, không gian công cộng, sinh kế.
Họ được tham gia, được phản hồi, và được hưởng lợi trực tiếp từ các dự án.
Ví dụ cụ thể: chương trình “khu phố xanh – sạch – đẹp” không chỉ là ra quân dọn dẹp, mà người dân được tự chọn khu vực, tự quản, nhận hỗ trợ về hạ tầng, cây xanh, hoặc quỹ khởi nghiệp nhỏ liên kết với doanh nghiệp.
Người dân tin tưởng phường/xã khi mọi hoạt động có kết quả đo lường được, minh bạch, không chỉ “hình ảnh rầm rộ, kết thúc lặng lẽ”.
2. Trong mắt doanh nghiệp – phường/xã là đối tác phát triển và điều phối địa phương
Doanh nghiệp nhìn phường/xã không còn chỉ là “cơ quan cấp phép, kiểm tra”, mà là đầu mối phối hợp, đồng kiến tạo sinh kế, môi trường kinh doanh, và kết nối cộng đồng.
Phường/xã:
Hỗ trợ kết nối nguồn nhân lực địa phương, cung cấp dữ liệu về nhu cầu lao động, nhu cầu thị trường nhỏ lẻ.
Tạo cơ chế thử nghiệm, hợp tác dự án kinh tế – xã hội (ví dụ: doanh nghiệp đồng hành cải tạo hạ tầng nhỏ, không gian công cộng, hoặc triển khai mô hình tuần hoàn – tái chế).
Doanh nghiệp đánh giá phường/xã là “nơi đồng hành để triển khai dự án hiệu quả, giảm rủi ro pháp lý, tăng uy tín với cộng đồng”.
3. Trong mắt chính cơ cấu tổ chức của phường/xã – là trung tâm điều phối và sáng tạo tại địa phương
Nhìn từ bên trong, cán bộ phường/xã nhận thức rõ rằng:
Họ không chỉ thực thi các mệnh lệnh hành chính mà là điều phối viên, kết nối các nguồn lực công – tư – cộng đồng.
Mỗi tổ chức chức năng (Hành chính – dữ liệu, Không gian sống – môi trường, Văn hóa – cộng đồng, Kinh tế cộng đồng, Liên minh cộng đồng) đều đóng vai trò mắt xích trong chuỗi tạo tác động.
Phường/xã vận hành theo triết lý dữ liệu – kế hoạch – hành động – giám sát – phản hồi, với các chỉ số đo lường kết quả thực sự, không chỉ chỉ tiêu hình thức.
Nhân viên cảm nhận rõ “tác động thực tế”: người dân an toàn hơn, đời sống tinh thần và vật chất tốt hơn, doanh nghiệp thấy dễ hợp tác hơn.
4. Trong phạm vi quản lý của tỉnh / TP – là điểm nút triển khai chính sách và đồng bộ hóa địa phương
Phường/xã trở thành đầu mối triển khai các chiến lược cấp tỉnh/TP một cách linh hoạt, hiệu quả:
Gắn kế hoạch địa phương với chiến lược phát triển đô thị, kinh tế – xã hội, môi trường của tỉnh/TP.
Cung cấp dữ liệu định lượng và định tính về hiệu quả các chương trình cho cấp trên, giúp tỉnh/TP ra quyết định chính sách dựa trên thực tế địa phương.
Là “mắt xích” để tỉnh/TP huy động doanh nghiệp, nguồn lực xã hội, và hỗ trợ người dân địa phương, đồng thời giám sát triển khai chính sách cấp trên.
5. Trong mắt trung ương – là mô hình thí điểm, đơn vị triển khai nghị quyết, chuẩn hóa quản trị cơ sở
Trung ương nhìn phường/xã là đơn vị thực hiện chính sách, thí điểm đổi mới quản trị, đồng thời là nguồn dữ liệu chiến lược:
Giúp kiểm chứng các chương trình phát triển đô thị, quản lý dân cư, nâng cao sinh kế, văn hóa – cộng đồng…
Phường/xã hiện đại trở thành “mẫu chuẩn” cho các địa phương khác trong cả nước triển khai **mô hình hợp thể công – tư – cộng đồng theo Nghị quyết 57 và các nghị quyết cải cách hành chính, phát triển đô thị – kinh tế xã hội”.
Trung ương đánh giá phường/xã qua chỉ số tác động thực tế, tính bền vững của các dự án, mức độ dân chủ – minh bạch – đồng thuận trong cộng đồng.
Tóm lại: mô hình phường/xã mới
Người dân: đối tác đồng hành, nơi sinh sống – học tập – phát triển.
Doanh nghiệp: đối tác phát triển, cung cấp nguồn lực, triển khai dự án.
Tổ chức nội bộ: trung tâm điều phối, sáng tạo, triển khai và giám sát.
Phạm vi tỉnh/TP: mắt xích triển khai chính sách, cung cấp dữ liệu, đồng bộ hóa kế hoạch.
Trung ương: đơn vị thí điểm, mô hình chuẩn hóa, phản ánh thực tiễn hiệu quả các nghị quyết và chính sách quốc gia. Đề xuất mô hình mới: “Trung tâm Đồng hành – Sáng tạo – Phát triển”
(thay thế tên gọi và chức năng cũ của phường/xã trong bối cảnh chuyển đổi phát triển theo tinh thần Nghị quyết 57 – Bộ Chính trị) 1. Sự thay đổi về chức năng: từ hành chính sang phát triển
Chức năng cũ: “quản lý và báo cáo”
Trong mô hình hiện hành, cấp phường/xã chủ yếu đảm nhận các nhiệm vụ hành chính cơ bản:
Quản lý dân cư, đất đai, hộ tịch, giấy phép xây dựng nhỏ lẻ, hộ khẩu.
Triển khai các chương trình theo chỉ tiêu trên giao.
Tổ chức các phong trào, ra quân, họp tổ dân phố, tổng hợp báo cáo định kỳ.
Mô hình này giúp bộ máy vận hành ổn định nhưng đang thiếu động lực phát triển, thiếu khả năng huy động nguồn lực xã hội, và gần như không tạo được tác động thực tế đến sinh kế, văn hóa và chất lượng sống của người dân.
Chức năng mới: “điều phối và kiến tạo”
“Trung tâm Đồng hành – Sáng tạo – Phát triển” được thiết kế với sứ mệnh mới:
Điều phối nguồn lực địa phương: kết nối giữa người dân, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, đoàn thể, nhà khoa học và chính quyền cấp trên.
Hỗ trợ khởi nghiệp – sinh kế – dịch vụ cộng đồng: trở thành “bệ đỡ” cho người dân và doanh nghiệp nhỏ, giúp họ phát triển bền vững.
Cải thiện đời sống và không gian công cộng: tập trung vào các dự án nâng cao chất lượng sống (văn hóa, môi trường, y tế, giáo dục, nhà ở, sinh hoạt cộng đồng).
Thúc đẩy văn hóa sáng tạo và gắn kết cộng đồng: khuyến khích người dân tham gia vào quá trình kiến tạo địa phương, lan tỏa tinh thần “đồng hành – cùng làm – cùng hưởng”.
Đo lường bằng tác động thực chất: mọi hoạt động được đánh giá bằng chỉ số sinh kế, mức độ hài lòng, số lượng việc làm mới, số mô hình dân tham gia, thay vì đếm số buổi họp, phong trào, báo cáo.
Như vậy, phường/xã trong mô hình mới không còn là cơ quan hành chính thụ động, mà là “nút trung gian phát triển” của toàn hệ sinh thái địa phương.2. Thay đổi về tên gọi: từ địa danh hành chính sang tên phản ánh triết lý
Tên hành chính
Tên hành chính (như “xã Bình Mỹ”, “phường Xuân Hòa”) vẫn được duy trì để phục vụ các thủ tục pháp lý, quản lý ranh giới, dân cư, ngân sách, hành chính nhà nước.
Tên tính chất / chiến lược mới
Song song đó, tên gọi mới thể hiện triết lý, vai trò và định hướng phát triển của đơn vị, ví dụ:
“Trung tâm Đồng hành – Sáng tạo – Phát triển Bình Mỹ”
“Cộng đồng Kiến Tạo Xuân Hòa”
“Hợp thể Phát triển vùng Bình Mỹ” (khi mở rộng ra quy mô liên xã, liên phường, hoặc hợp tác công – tư quy mô lớn).
Tên gọi này mang tính năng động và mở, thể hiện sự chuyển dịch từ “địa giới hành chính” sang “cộng đồng phát triển”, đồng thời giúp thay đổi cách nhìn và cách vận hành từ trong ra ngoài:
Người dân cảm nhận được nơi mình sống có mục tiêu và định hướng rõ ràng.
Doanh nghiệp và tổ chức bên ngoài coi đây là đối tác phát triển, không chỉ là cấp xin – cho hành chính.
Chính quyền cấp trên nhìn thấy ở đây một đầu mối đổi mới sáng tạo và thử nghiệm chính sách.3. Thay đổi về quy mô: từ địa giới sang vùng tác động thực tế
Cách tiếp cận cũ
Mỗi xã/phường bị ràng buộc trong ranh giới địa lý; hoạt động ít kết nối với đơn vị liền kề; nguồn lực bị phân tán, chồng chéo hoặc trùng lặp.
Cách tiếp cận mới
“Trung tâm Đồng hành – Sáng tạo – Phát triển” hoạt động theo nguyên tắc mở và linh hoạt, tạo ra “vùng tác động” thay vì giới hạn trong địa bàn hành chính.
Có thể kết nối 2–3 xã/phường lân cận để triển khai dự án chung (về sinh kế, môi trường, du lịch cộng đồng, không gian công cộng).
Liên kết trực tiếp với doanh nghiệp, trường học, tổ chức xã hội, viện nghiên cứu trên cùng địa bàn hoặc vùng phụ cận.
Tạo thành “mạng lưới phát triển địa phương”, nơi mỗi trung tâm vừa tự chủ vừa hỗ trợ lẫn nhau, chia sẻ dữ liệu, kinh nghiệm và nguồn lực.4. Triết lý cốt lõi: từ quản lý sang đồng hành
Mục tiêu chiến lược:
Khai thác và kết nối nguồn lực địa phương; đồng hành cùng người dân và doanh nghiệp; tạo tác động thực chất, đo lường được; xây dựng cộng đồng phát triển bền vững, sáng tạo và nhân văn.
Tên gọi:
Phản ánh tính chất – vai trò – triết lý phát triển, không bị giới hạn bởi địa giới hành chính.
Quy mô:
Linh hoạt, mở rộng theo phạm vi tác động thực tế, năng lực liên kết và sáng tạo của địa phương, hướng tới tạo lập “cụm phát triển xã hội – kinh tế – văn hóa” thay vì chỉ là đơn vị hành chính. I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH
Bối cảnh pháp lý và thực tiễn
Hệ thống phường/xã hiện nay được quy định chủ yếu trong Luật Tổ chức Chính quyền địa phương 2015 (sửa đổi 2019), cùng các nghị định hướng dẫn về tổ chức, cán bộ, tài chính, và phân cấp quản lý.
Cơ chế hiện hành mang tính hành chính – mệnh lệnh, nặng về thực hiện chỉ tiêu, chưa tích hợp các phương pháp phát triển kinh tế – xã hội địa phương.
Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị (về phát triển vùng Đông Nam Bộ và TP.HCM) yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo, quản trị phát triển, tăng cường phân quyền, huy động nguồn lực xã hội và đổi mới sáng tạo trong mọi cấp hành chính.
Thực tiễn cho thấy: phường/xã là điểm chạm gần dân nhất, nhưng lại ít quyền, ít dữ liệu, thiếu năng lực điều phối và hợp tác công – tư, dẫn đến tình trạng “hành chính hóa đời sống”.
Yêu cầu chuyển đổi
Từ “cấp hành chính quản lý” sang “tổ chức đồng hành và phát triển”.
Từ “chạy theo chỉ tiêu sự vụ” sang “đo lường tác động đến đời sống thực”.
Từ “cấu trúc ngành dọc” sang “tổ hợp phối hợp đa ngành – đa lực lượng”.
Từ “phường/xã bị động” sang “trung tâm sáng tạo và điều phối nguồn lực địa phương”.
II. MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC
Mục tiêu tổng quát
Xây dựng “Trung tâm Đồng hành – Sáng tạo – Phát triển” (gọi tắt là Trung tâm) như một đơn vị hạt nhân trong quản trị phát triển địa phương, kết nối Nhà nước – Doanh nghiệp – Cộng đồng – Người dân nhằm:
Nâng cao chất lượng sống thực chất của người dân.
Tạo sinh kế bền vững, việc làm tại chỗ, và năng lực tự cường của cộng đồng.
Phát triển không gian sống – văn hóa – xã hội – môi trường hài hòa.
Hình thành năng lực sáng tạo, đổi mới mô hình quản trị cấp cơ sở.
Mục tiêu cụ thể
100% kế hoạch hành động gắn với chỉ số chất lượng sống và sinh kế thực tế.
70% nguồn lực triển khai đến từ hợp tác công – tư – cộng đồng.
Xây dựng ít nhất 3 mô hình điểm: “sàn việc làm cộng đồng”, “không gian sáng tạo địa phương”, “chương trình phát triển sinh kế xanh”.
III. CHỨC NĂNG MỚI CỦA TRUNG TÂM
Chức năng điều phối phát triển địa phương
Là đầu mối tổng hợp, điều phối và quản lý dữ liệu kinh tế – xã hội tại địa bàn.
Kết nối các tổ chức, doanh nghiệp, nhóm nghề, viện trường để triển khai các dự án phát triển cộng đồng.
Chức năng đồng hành và hỗ trợ sinh kế
Phát triển các chương trình khởi nghiệp, đào tạo nghề, phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp, du lịch, dịch vụ.
Hỗ trợ người dân tiếp cận vốn, kỹ năng, thị trường.
Chức năng sáng tạo và văn hóa cộng đồng
Tổ chức hoạt động văn hóa, nghệ thuật, không gian công cộng.
Tạo điều kiện cho người dân, giới trẻ, nghệ nhân, tổ chức xã hội thể hiện sáng kiến.
Chức năng phản hồi – đánh giá – minh bạch
Ghi nhận ý kiến, phản hồi từ người dân và doanh nghiệp.
Đo lường tác động bằng chỉ số cụ thể (hài lòng, sinh kế, chất lượng sống).
IV. NGUYÊN LÝ HOẠT ĐỘNG
1. Nguyên lý duy trì từ hệ thống cũ (cần thiết và kế thừa)
Duy trì tính pháp lý, hành chính, và kỷ luật công vụ theo Luật Nhà nước.
Bảo đảm nguyên tắc cấp trên giám sát – cấp dưới chịu trách nhiệm, nhưng chuyển hướng giám sát từ “hình thức – thủ tục” sang “chất lượng và hiệu quả”.
Giữ nguyên vai trò Đảng ủy, HĐND, UBND, Mặt trận, song tái cấu trúc lại cách thức phối hợp và nhiệm vụ.
2. Nguyên lý mới (chuyển đổi)
Đồng hành – không thay thế: Trung tâm không làm thay người dân, doanh nghiệp mà tạo môi trường để họ tự phát triển.
Hợp tác – không hành chính hóa: Mọi chương trình được xây dựng bằng cơ chế công – tư – cộng đồng.
Dữ liệu – không cảm tính: Mọi kế hoạch, phong trào, báo cáo đều dựa trên dữ liệu định lượng và định tính (chỉ số sinh kế, hài lòng, an toàn, năng lực cộng đồng).
Sáng tạo – không khuôn mẫu: Mỗi địa phương được thử nghiệm mô hình riêng phù hợp văn hóa và nguồn lực. . NHÂN SỰ: CẤU TRÚC MỚI – TINH GỌN VÀ LINH HOẠT
1. Mô hình cũ
Cán bộ chia theo phòng ban ngành dọc: địa chính, văn hóa, tư pháp, LĐTBXH, văn phòng, đoàn thể.
Ít cơ chế phối hợp, công việc chồng chéo, quá tải hành chính.
2. Mô hình mới
Tổ chức lại thành 5 tổ chuyên trách đa nhiệm:
Tổ Hành chính – Dữ liệu & Thông tin công: số hóa, quản lý dữ liệu dân cư – kinh tế – xã hội.
Tổ Quản lý không gian sống & Môi trường: phối hợp cải tạo hạ tầng nhỏ, cảnh quan, không gian công cộng.
Tổ Văn hóa – Đời sống – Cộng đồng: phát triển tinh thần “phường là nhà”, tổ chức văn hóa và sáng tạo.
Tổ Kinh tế cộng đồng & Sinh kế bền vững: kết nối doanh nghiệp, hợp tác xã, việc làm, sinh kế.
Liên minh Cộng đồng phường/xã: hợp nhất đoàn thể, mặt trận, tổ chức xã hội dân sự – giám sát và truyền cảm hứng.
3. Nguyên tắc nhân sự
Giảm tầng nấc hành chính, tăng cán bộ chuyên về phát triển, kết nối, dữ liệu, và cộng đồng.
Mỗi tổ có tổ trưởng chịu trách nhiệm theo kết quả đầu ra, không chỉ báo cáo hành chính.
Thí điểm mô hình “cán bộ đồng hành” – chuyên viên phát triển cộng đồng (Community Officer). NHIỆM VỤ CỤ THỂ – SO SÁNH MÔ HÌNH CŨ VÀ MỚI
Trong tiến trình chuyển đổi từ “phường/xã” sang “Trung tâm đồng hành – sáng tạo – phát triển”, các nhiệm vụ của cấp cơ sở cần được tái cấu trúc lại toàn diện, vừa giữ những chức năng nền tảng về hành chính – dân sự, vừa mở rộng sang các lĩnh vực hỗ trợ phát triển, kết nối nguồn lực và tạo ra giá trị thực cho cộng đồng.
1. Nhóm nhiệm vụ hành chính – quản lý nhà nước
Ở mô hình cũ, phần lớn thời gian của cán bộ phường/xã tập trung vào công việc giấy tờ, hộ khẩu, giấy phép xây dựng, chứng thực, thống kê và tổng hợp báo cáo. Cơ chế này thiên về kiểm soát, ghi nhận và báo cáo hành chính, khiến nguồn lực con người bị “chôn” trong quy trình thủ tục.
Ở mô hình mới, Trung tâm đồng hành – sáng tạo – phát triển vẫn duy trì chức năng này để bảo đảm pháp lý và trật tự hành chính, nhưng toàn bộ quy trình được số hóa và tự động hóa, từ tiếp nhận hồ sơ đến lưu trữ và báo cáo. Việc này giúp cán bộ có thể giải phóng thời gian, tập trung nhiều hơn cho công tác phát triển sinh kế, gắn kết cộng đồng và hỗ trợ người dân.
2. Nhóm nhiệm vụ phong trào – tuyên truyền
Trước đây, hoạt động chủ yếu là thực hiện các phong trào thi đua, chiến dịch, tuyên truyền theo kế hoạch cấp trên giao xuống, thiếu sự gắn kết với đời sống thực tế của người dân.
Trong mô hình mới, các phong trào được chuyển hóa thành các chương trình phát triển cộng đồng có mục tiêu rõ ràng và đo lường được, ví dụ như “Tuần lễ không rác thải”, “Không gian đọc xanh”, “Khu phố sáng tạo – thân thiện – an toàn”. Mỗi hoạt động được thiết kế như một dự án nhỏ có người phụ trách, có ngân sách xã hội hóa, có đánh giá kết quả. Qua đó, tuyên truyền không còn là hình thức, mà trở thành công cụ để chuyển hóa nhận thức và hành vi.
3. Nhóm nhiệm vụ dân vận – đoàn thể
Trước đây, mỗi tổ chức đoàn thể (Mặt trận, Đoàn, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Cựu chiến binh…) hoạt động tách rời, thiếu phối hợp, dẫn đến trùng lặp nguồn lực và phân tán thông tin.
Trong mô hình mới, các tổ chức này được liên kết thành “Hội đồng Cộng đồng” – một cơ chế phối hợp chung, có nhiệm vụ đồng thiết kế kế hoạch hành động cho toàn trung tâm, cùng triển khai và cùng đánh giá. Mỗi đoàn thể vẫn giữ bản sắc riêng nhưng chia sẻ chung một mục tiêu: phát triển con người và cộng đồng địa phương.
4. Nhóm nhiệm vụ kinh tế – lao động
Ở mô hình cũ, phường/xã chủ yếu thực hiện công tác thống kê, báo cáo tình hình lao động, quản lý đối tượng chính sách, hộ nghèo… nhưng chưa thực sự tạo ra tác động phát triển.
Ở mô hình mới, trung tâm chủ động tổ chức các “sàn sinh kế” và “trạm kết nối việc làm”, liên kết với doanh nghiệp, hợp tác xã, quỹ tín dụng, trường nghề để tạo đầu ra cho người dân, hỗ trợ các hộ sản xuất nhỏ, người lao động phi chính thức, khởi nghiệp trẻ. Như vậy, phường/xã không còn chỉ “báo cáo nghèo đói” mà trở thành đầu mối hỗ trợ thoát nghèo, tạo việc làm và phát triển kinh tế cộng đồng.
5. Nhóm nhiệm vụ văn hóa – xã hội
Trước đây, công tác văn hóa – xã hội chủ yếu dừng ở việc tổ chức lễ hội, tuyên truyền nếp sống văn minh, thực hiện các phong trào văn hóa – thể thao theo chỉ tiêu.
Trong mô hình mới, Trung tâm đồng hành – sáng tạo – phát triển chú trọng nâng cao chất lượng đời sống tinh thần, xây dựng không gian công cộng, thư viện mở, câu lạc bộ sáng tạo, và thúc đẩy các hoạt động văn hóa cộng đồng gắn với bản sắc địa phương. Văn hóa không chỉ là tuyên truyền, mà là nền tảng cho sáng tạo và gắn kết xã hội.
Tổng quan chuyển đổi
Từ bị động sang chủ động: Cán bộ không chỉ thực hiện mệnh lệnh mà trở thành người kiến tạo, dẫn dắt, hỗ trợ.
Từ hành chính sang phát triển: Mục tiêu không còn dừng ở việc “quản lý” mà là “phát triển”.
Từ phong trào sang tác động thực tế: Mỗi chương trình đều gắn với kết quả cụ thể, đo lường được, và có giá trị với cộng đồng.
Từ rời rạc sang hợp lực: Các đoàn thể, doanh nghiệp, tổ dân phố và người dân cùng tham gia vào một hệ sinh thái cộng đồng thống nhất. đây là một cuộc chuyển đổi căn bản về mô hình tổ chức và triết lý phát triển ở cấp cơ sở, không chỉ là đổi tên, mà là đổi bản chất vận hành của Nhà nước ở cấp thấp nhất. Khi phường, xã trở thành “Trung tâm đồng hành – sáng tạo – phát triển”, nó đồng nghĩa với việc chuyển từ cơ quan hành chính – quản lý dân cư sang đơn vị điều phối phát triển địa phương.
Hãy nhìn sâu vào bản chất của sự thay đổi này qua bốn tầng nền tảng:
1. Về tư duy và triết lý điều hành
Trước đây, cấp phường/xã được xem như “cánh tay nối dài” của bộ máy hành chính – nơi thực hiện mệnh lệnh, thống kê, báo cáo, xử lý hồ sơ và quản lý dân cư.
Mô hình mới chuyển trọng tâm sang “đồng hành và phát triển”: phường/xã không còn là nơi “kiểm soát” mà là nơi khơi dậy, hỗ trợ, kết nối và dẫn dắt năng lượng xã hội, giúp cộng đồng tự vươn lên.
Tư duy mới coi người dân là chủ thể phát triển, còn chính quyền cơ sở là người tổ chức, điều phối và kích hoạt năng lực địa phương.
Đây chính là sự cụ thể hóa tinh thần của Nghị quyết 57: Nhà nước không chỉ quản lý, mà kiến tạo – hỗ trợ – phát triển; lấy con người, đổi mới sáng tạo, và cộng đồng làm trung tâm.
2. Về chức năng và cấu trúc tổ chức
Cấu trúc mới của “Trung tâm đồng hành – sáng tạo – phát triển” gồm 3 trụ chính:
Trụ “Đồng hành”: phụ trách hành chính, hỗ trợ pháp lý, giải quyết thủ tục, bảo đảm nền tảng ổn định để người dân, doanh nghiệp, tổ chức hoạt động thuận lợi.
→ Đây là phần “nền” duy trì bộ máy công vụ, nhưng vận hành theo hướng số hóa và phục vụ thay vì giám sát, kiểm tra.
Trụ “Sáng tạo”: phụ trách khởi xướng các chương trình phát triển cộng đồng, sinh kế, giáo dục, văn hóa, môi trường, chuyển đổi số, khởi nghiệp địa phương.
→ Đây là nơi thúc đẩy năng lực phát triển mới – không chỉ giữ gìn mà tạo ra thay đổi tích cực.
Trụ “Phát triển”: điều phối liên kết giữa chính quyền – doanh nghiệp – người dân – tổ chức xã hội.
→ Thay vì “phân cấp” theo hành chính, trụ này liên kết theo hệ sinh thái, giúp huy động nguồn lực trong và ngoài địa bàn để tạo tác động thực tế.
3. Về cơ chế hoạt động và đánh giá
Trước đây, thành tích của phường/xã thường được đánh giá qua chỉ tiêu hành chính: số hồ sơ giải quyết, tỉ lệ hộ nghèo giảm, số buổi họp, phong trào được triển khai...
Trong mô hình mới, việc đánh giá chuyển sang tác động phát triển thực tế:
Bao nhiêu hộ dân được hỗ trợ sinh kế hoặc việc làm?
Bao nhiêu không gian công cộng được cải thiện?
Bao nhiêu sáng kiến cộng đồng được triển khai thành công?
Mức độ hài lòng, gắn kết, và tự chủ của người dân ra sao?
Mỗi “trung tâm” có bộ chỉ số phát triển cộng đồng (C-Index), đo bằng tác động xã hội, chứ không chỉ bằng khối lượng công việc hành chính.
Cơ chế này khuyến khích cán bộ cơ sở tư duy sáng tạo, linh hoạt, có kết quả cụ thể, thay vì chỉ lo hoàn thành chỉ tiêu giấy tờ.
4. Về nhân sự và văn hóa tổ chức
Mô hình cũ: cán bộ phường/xã thường gánh nặng hành chính, ít có điều kiện học hỏi, đổi mới hay thử nghiệm sáng kiến.
Mô hình mới: cần đội ngũ “điều phối viên phát triển địa phương” – những người hiểu cộng đồng, biết kết nối, biết tạo động lực và quản trị nguồn lực.
→ Cán bộ hành chính được “tái định vị” thành người dẫn dắt cộng đồng, có kỹ năng xã hội, kinh tế, và truyền thông.
Mỗi “trung tâm” có thể mời gọi chuyên gia, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội tham gia, hình thành mạng lưới hợp tác mở.
Văn hóa tổ chức chuyển từ “mệnh lệnh – chỉ đạo” sang “hợp tác – đồng kiến tạo”, nơi mọi người dân, doanh nghiệp, đoàn thể đều có vai trò chủ động trong phát triển địa phương.Việc đổi tên “phường/xã” thành “Trung tâm đồng hành – sáng tạo – phát triển” không phải là hình thức, mà là bước mở đầu cho cải cách thể chế ở tầng thấp nhất của hệ thống nhà nước.
Từ đây, chính quyền địa phương trở thành nền tảng sáng tạo và đồng kiến tạo xã hội, nơi tinh thần Nghị quyết 57 – “đổi mới, kiến tạo, lấy con người và cộng đồng làm trung tâm” – được thể hiện sống động nhất.Để thực hiện chiến lược chuyển đổi cấp phường, xã thành “Trung tâm Đồng hành – Sáng tạo – Phát triển”, cần rà soát và sửa đổi một loạt văn bản pháp lý hiện hành. Cốt lõi là thay đổi từ mô hình “hành chính – quản lý – báo cáo” sang mô hình “điều phối – hỗ trợ – kiến tạo”, trong đó cấp cơ sở được xem như một đơn vị hợp tác công – tư linh hoạt, gần dân nhất, hiểu dân nhất và tạo tác động trực tiếp nhất đến chất lượng sống.
I. Các văn bản pháp lý cần rà soát, sửa đổi
Luật Tổ chức Chính quyền địa phương
Đây là khung pháp lý cốt lõi quy định bộ máy, thẩm quyền và nhiệm vụ của cấp xã, phường.
Cần sửa đổi để:
Cho phép phường, xã có chức năng điều phối phát triển và hợp tác công – tư.
Mở rộng phạm vi hoạt động sang lĩnh vực hỗ trợ sinh kế, phát triển cộng đồng, đổi mới sáng tạo địa phương.
Cho phép thành lập các tổ chuyên môn linh hoạt, thay cho cơ cấu phòng ban cứng nhắc hiện nay.
Luật Ngân sách Nhà nước
Hiện phường, xã gần như chỉ có vai trò thực hiện chi hành chính, không chủ động được nguồn lực phát triển.
Cần bổ sung cơ chế phân cấp tài chính – ngân sách linh hoạt, cho phép huy động nguồn lực xã hội hóa, liên kết doanh nghiệp, quỹ đầu tư cộng đồng.
Luật Đầu tư công
Hiện chưa cho phép phường, xã đề xuất và chủ động quản lý các dự án phát triển quy mô nhỏ.
Cần mở cơ chế để “trung tâm đồng hành” được thực hiện các dự án vi mô, dự án cộng đồng, hạ tầng nhỏ và không gian công cộng, có cơ chế xét duyệt và kiểm soát đơn giản hơn.
Luật Doanh nghiệp và Luật Hợp tác xã
Cần làm rõ vai trò của cấp phường, xã trong hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh và hợp tác xã địa phương, tạo điều kiện cho mô hình “kinh tế cộng đồng” phát triển.
Luật Quy hoạch và Luật Đất đai
Hiện vai trò cấp xã trong quy hoạch, sử dụng đất, phát triển không gian công cộng còn rất hạn chế.
Cần quy định rõ cơ chế tham gia điều phối của phường, xã trong quy hoạch đô thị – nông thôn, và quyền đề xuất chỉnh trang, cải tạo vi mô không gian sống.
Luật Cán bộ, công chức và Luật Tổ chức chính quyền địa phương (phần nhân sự)
Cán bộ phường, xã hiện chủ yếu làm hành chính, không được đào tạo hoặc đãi ngộ theo năng lực đổi mới, sáng tạo.
Cần cho phép áp dụng cơ chế hợp đồng, tuyển chọn nhân sự chuyên môn từ khu vực tư, và đào tạo lại cán bộ hiện có theo hướng điều phối phát triển.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Cần bổ sung cơ chế để cấp phường, xã có thể đề xuất, thử nghiệm sáng kiến chính sách cấp cơ sở (sandbox địa phương), có quyền tổng hợp và phản hồi chính sách theo chu trình hai chiều.
II. Những điểm yếu hiện nay cần khắc phục
Tư duy hành chính vẫn chi phối toàn bộ hoạt động của phường, xã. Mọi việc được nhìn qua lăng kính “chỉ tiêu – báo cáo – quản lý”, chứ chưa nhìn qua “vấn đề – giải pháp – tác động”.
Phương pháp hoạch định chưa lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, mà lấy mệnh lệnh cấp trên làm chuẩn. Điều này khiến chính quyền cơ sở bị động, sợ sai, thiếu sáng tạo.
Cơ chế pháp lý cứng nhắc khiến phường, xã không thể ký kết hợp tác linh hoạt, không được phép sử dụng nguồn lực xã hội hóa, không có quyền thử nghiệm mô hình mới.
Công tác nhân sự chưa coi trọng năng lực tổ chức, truyền thông và kết nối. Cán bộ cơ sở làm nhiều việc vụn vặt, ít có thời gian và động lực để tham gia vào chương trình phát triển.
Cách đánh giá kết quả vẫn dựa trên đầu vào: số buổi họp, số văn bản, số phong trào. Trong khi điều cần đánh giá phải là: mức độ hài lòng của dân, số việc làm mới, chất lượng môi trường, và sự gắn kết xã hội.
III. Hướng sửa đổi và định hướng mới
Tái định nghĩa vai trò của cấp cơ sở: từ quản lý hành chính sang điều phối phát triển.
Cho phép thí điểm mô hình “Trung tâm Đồng hành – Sáng tạo – Phát triển” tại một số địa phương, tiến tới thể chế hóa bằng nghị định riêng.
Thiết kế lại cơ chế ngân sách và đầu tư công, cho phép thực hiện dự án cộng đồng quy mô nhỏ, có sự tham gia của dân và doanh nghiệp.
Xây dựng bộ chỉ số phát triển địa phương (Local Development Index) để đánh giá tác động thực tế của các trung tâm này đến đời sống dân cư.
Đổi mới đào tạo cán bộ phường, xã, chuyển trọng tâm sang kỹ năng làm việc với doanh nghiệp, kết nối nguồn lực, quản trị dự án và truyền thông cộng đồng. I. RỦI RO KHÁCH QUAN
1. Thể chế và pháp luật chưa kịp thích ứng
Mô hình “trung tâm đồng hành sáng tạo” chưa có trong khung pháp lý hiện hành, nên có nguy cơ bị xem là “làm sai quy trình” hoặc “vượt khung”.
Các quy định về ngân sách, biên chế, trách nhiệm công vụ vẫn dựa trên tư duy quản lý hành chính truyền thống; vì vậy mọi sáng kiến, liên kết công – tư, hợp tác xã hội dễ bị ách tắc.
Kiểm soát:
Thí điểm theo tinh thần “Nghị quyết 57 – cải cách thể chế vượt trội cho vùng động lực”, xin cơ chế đặc thù, hoặc vận dụng khung pháp lý thử nghiệm có giới hạn.
Tạo hành lang chính trị bảo vệ người dám làm, thông qua văn bản chỉ đạo hoặc nghị quyết cấp thành phố. 2. Biến động kinh tế – xã hội và chính trị địa phương
Sự thay đổi trong ưu tiên phát triển, ngân sách, hoặc nhân sự lãnh đạo có thể làm đứt gãy tiến trình chuyển hóa.
Khi kinh tế khó khăn, các địa phương có xu hướng quay lại “quản lý chặt” thay vì “hỗ trợ mở”.
Kiểm soát:
Thiết kế chiến lược theo hướng “bền theo chu kỳ” — nghĩa là dù chính quyền thay đổi, trung tâm vẫn tồn tại như một thiết chế xã hội – cộng đồng.
Đa dạng hóa nguồn lực: ngân sách chỉ đóng vai trò hạt nhân, còn cộng đồng, doanh nghiệp, quỹ xã hội là nguồn hỗ trợ bền vững. 3. Tâm lý e dè và nghi ngờ của người dân, doanh nghiệp
Người dân chưa tin rằng phường, xã có thể “giúp họ sáng tạo hay phát triển”; họ quen nghĩ đây là nơi “xin – cho, chứng – nhận, phê – duyệt”.
Doanh nghiệp nhỏ hoặc tổ chức xã hội sợ bị ràng buộc, thanh kiểm tra.
Kiểm soát:
Giai đoạn đầu chỉ tập trung “tạo niềm tin bằng kết quả nhỏ, cụ thể” — ví dụ: giúp người dân làm hồ sơ nhanh hơn, giúp thanh niên có chỗ học nghề, hoặc hỗ trợ tiểu thương chuyển đổi số.
Xây dựng thương hiệu địa phương mới qua các hoạt động cộng đồng: hội chợ sáng tạo, ngày chủ nhật vì dân, diễn đàn đồng kiến tạo.II. RỦI RO CHỦ QUAN
1. Tư duy và năng lực của cán bộ cơ sở
Đây là rủi ro trọng yếu. Cán bộ quen “quản lý – phê duyệt – kiểm tra” nay phải “lắng nghe – hỗ trợ – dẫn dắt”.
Một bộ phận có thể thấy bị mất quyền lực, mất vị thế, dẫn tới chống đối thầm lặng hoặc làm qua loa hình thức.
Kiểm soát:
Chuyển hóa dần, không áp đặt. Tổ chức “khóa học hành động” ngay trong phường, xã — nơi họ được tham gia thiết kế lại công việc của chính mình.
Thiết lập hệ thống đánh giá mới: không chấm điểm bằng “hồ sơ xử lý”, mà bằng “mức độ hài lòng và tham gia của người dân, doanh nghiệp”.
2. Thiếu cơ chế vận hành linh hoạt
Nhiều nơi không rõ trung tâm này do ai chủ trì: Ủy ban phường, Mặt trận, đoàn thể hay một tổ chức mới.
Nếu không rõ vai trò, sẽ dẫn tới chồng chéo, tranh công, hoặc bỏ mặc.
Kiểm soát:
Thiết kế “ban điều phối đa thành phần”: chính quyền – doanh nghiệp – tổ dân phố – đoàn thể.
Mỗi bên có vai trò rõ ràng, cam kết kết quả; dùng quy chế phối hợp nội bộ thay vì văn bản hành chính.
3. Tư lợi, hình thức hóa và biến tướng
Một số nơi có thể lợi dụng danh nghĩa “đổi mới sáng tạo” để mở dự án trá hình, nhận tài trợ hoặc truyền thông sai lệch.
Mô hình dễ bị “chạy theo phong trào” mà không có nội dung thực.
Kiểm soát:
Thiết lập cơ chế giám sát công khai – cộng đồng cùng kiểm tra.
Mọi trung tâm phải có báo cáo kết quả cụ thể, minh bạch hoạt động, ngân sách và số người hưởng lợi thực tế.4. Thiếu đội ngũ dẫn dắt tinh thần (leadership tinh tế)
Phường, xã không có “người truyền cảm hứng” thì mọi mô hình đều chết yểu.
Tư duy “tránh rủi ro, không sai phạm” sẽ bóp nghẹt tinh thần sáng tạo.
Kiểm soát:
Chọn hạt nhân lãnh đạo có tầm nhìn nhân văn, không chỉ giỏi nghiệp vụ.
Thiết lập “cộng đồng lãnh đạo cơ sở” — một diễn đàn để chia sẻ kinh nghiệm, học tập ngang hàng, không theo mệnh lệnh dọc.
III. CƠ CHẾ KIỂM SOÁT TỔNG THỂ
Nguyên tắc “thử – sai – sửa – nhân rộng”
Không đặt yêu cầu hoàn hảo ngay từ đầu.
Cho phép sai trong phạm vi nhỏ, rồi học để mở rộng.
Hệ thống chỉ báo sớm rủi ro (early indicators)
Ví dụ: tỉ lệ người dân tham gia các hoạt động cộng đồng giảm, cán bộ xin chuyển công tác nhiều, doanh nghiệp rút tài trợ — đều là tín hiệu cảnh báo.
Mạng lưới cố vấn vùng và chuyên gia độc lập
Hỗ trợ kỹ thuật, pháp lý, truyền thông để giúp phường xã không đơn độc.
Cố vấn hoạt động như “người giữ nhịp” giữa cấp trên và cơ sở.
Cơ chế bảo vệ người đổi mới
Lãnh đạo cấp thành phố cần có văn bản hoặc cam kết chính trị rằng: “người dám làm thí điểm được bảo vệ”.
Đây là điều kiện tiên quyết để hành động không bị sợ hãi.
Tóm lại, rủi ro khách quan phần lớn đến từ môi trường thể chế và niềm tin xã hội, còn rủi ro chủ quan đến từ nội lực hệ thống và con người thực thi.
Muốn kiểm soát chúng, cần chuyển từ tư duy “phòng ngừa sai phạm” sang “quản trị sự thay đổi”, nghĩa là không triệt tiêu rủi ro, mà chấp nhận rủi ro như một phần của tiến trình sáng tạo, có giới hạn, có giám sát, và có học tập liên tục. I. NHỮNG ĐIỂM NGHẼN LỚN MÀ MÔ HÌNH NÀY GIẢI QUYẾT
1. Điểm nghẽn về khoảng cách giữa chính quyền và người dân
Hiện nay, phường – xã chủ yếu làm “công việc giấy tờ”, không thực sự hiểu hoặc đồng hành cùng nhu cầu, sinh kế, sáng kiến của dân.
Chính quyền và dân “gặp nhau” qua thủ tục, chứ không qua mục tiêu chung.
→ Kết quả: chính quyền trở thành “người giám sát”, còn dân là “người chịu đựng”.
Giải pháp đột phá:
Biến phường – xã thành nơi lắng nghe, tư vấn, kết nối và hỗ trợ người dân thực hiện sáng kiến sống, kinh doanh, việc làm, giáo dục, an sinh.
Mỗi phường là “trạm điều phối cộng đồng” — hiểu người dân, kết nối tài nguyên địa phương, giải quyết vấn đề từ gốc.
Lợi ích thực tiễn:
Tăng niềm tin và sự hợp tác xã hội; giảm khiếu nại, xung đột.
Hình thành “năng lực đồng kiến tạo” giữa dân – chính quyền – doanh nghiệp. 2. Điểm nghẽn về mô hình quản trị cứng nhắc, hành chính hóa
Hệ thống hiện nay đo bằng hồ sơ, thủ tục, định mức, biên chế, trong khi nhu cầu xã hội biến động nhanh và đa dạng.
Cán bộ bị khóa chặt trong khung “làm đúng quy trình”, không dám đổi mới.
Giải pháp đột phá:
Chuyển cơ chế từ “quản lý theo quy trình” sang “quản trị theo kết quả và giá trị cộng đồng”.
Cho phép phường – xã được thử nghiệm mô hình dịch vụ công cộng, hợp tác xã hội, liên kết doanh nghiệp, miễn là minh bạch và có lợi ích thực cho dân.
Lợi ích thực tiễn:
Mỗi địa phương có bản sắc, sáng tạo, linh hoạt hơn.
Giảm tải cho cấp trên, vì nhiều vấn đề được xử lý ngay tại cơ sở.
Tăng hiệu quả đầu tư công và sự hài lòng của người dân.3. Điểm nghẽn về phân mảnh và chồng chéo tổ chức
Ở cấp phường, hiện có nhiều tổ chức cùng tồn tại: Ủy ban, Mặt trận, các đoàn thể, tổ dân phố, hội phụ nữ, thanh niên… nhưng thiếu phối hợp và tầm nhìn chung.
Nhiều hoạt động trùng lặp, hình thức, thiếu hiệu quả.
Giải pháp đột phá:
Thiết lập một trung tâm điều phối chung – nơi các lực lượng được quy tụ, chia sẻ dữ liệu, thống nhất kế hoạch hành động theo mục tiêu “phát triển cộng đồng địa phương”.
Thay vì hoạt động rời rạc, tất cả cùng vận hành theo “chuỗi nhiệm vụ chung”.
Lợi ích thực tiễn:
Giảm chi phí vận hành, tăng hiệu suất nguồn lực xã hội.
Cộng đồng được phục vụ theo cách liên thông và chuyên nghiệp.
Tăng khả năng phối hợp giữa chính quyền – đoàn thể – dân cư.4. Điểm nghẽn về động lực của cán bộ cơ sở
Cán bộ phường xã hiện bị “nghẽn” bởi hai nỗi sợ: sợ sai và sợ mất quyền lực.
Không có cơ chế đánh giá theo đóng góp sáng tạo, nên người giỏi chán, người năng động dễ nản.
Giải pháp đột phá:
Xây dựng hệ thống đánh giá và đãi ngộ mới, lấy chỉ số “mức độ hài lòng, sáng kiến, và kết quả phát triển cộng đồng” làm tiêu chí chính.
Tạo môi trường “có thể sai nhỏ để học, có thể đúng lớn để thưởng”.
Lợi ích thực tiễn:
Cán bộ trẻ có không gian phát triển năng lực thật.
Giảm quan liêu, tăng tinh thần phục vụ, lan tỏa năng lượng tích cực trong cộng đồng hành chính.
5. Điểm nghẽn về năng lực thực thi chính sách tại cơ sở
Chính sách trung ương tốt nhưng khi xuống phường xã thì “chết yểu”, do thiếu người hiểu, thiếu công cụ, thiếu cơ chế linh hoạt.
Phường xã chỉ “chuyển công văn”, không “chuyển hóa chính sách”.
Giải pháp đột phá:
Trung tâm đồng hành – sáng tạo – phát triển sẽ là “bộ chuyển dịch chính sách sang thực tiễn”.
Họ thử nghiệm, đo lường, phản hồi chính sách ngược lên cấp trên, tạo chu trình “chính sách sống”.
Lợi ích thực tiễn:
Cấp trên nhận được dữ liệu thực, có thể điều chỉnh chính sách kịp thời.
Chính sách trở nên khả thi, gần dân và hiệu quả hơn nhiều lần.II. TÁC ĐỘNG VÀ LỢI ÍCH THỰC TIỄN
1. Với người dân
Được hỗ trợ trực tiếp trong việc làm, học nghề, khởi nghiệp, thủ tục, sinh kế.
Được tham gia vào các quyết định của cộng đồng, tăng ý thức công dân.
Môi trường sống, văn hóa, dịch vụ công được nâng cấp thực chất.
2. Với chính quyền
Giảm tải hành chính, tăng hiệu quả quản trị và dữ liệu thực địa.
Tăng năng lực phản ứng chính sách nhanh.
Củng cố tính chính danh và niềm tin xã hội đối với Nhà nước.
3. Với doanh nghiệp và tổ chức xã hội
Có đầu mối hỗ trợ chính thức để kết nối, thử nghiệm mô hình mới.
Mở ra không gian hợp tác công – tư tại cấp cơ sở, đặc biệt trong các lĩnh vực giáo dục, môi trường, tiêu dùng bền vững, dịch vụ cộng đồng.
4. Với toàn hệ thống phát triển quốc gia
Củng cố “nền móng thể chế” từ dưới lên.
Tạo ra mô hình nhân rộng, giúp Việt Nam chuyển dần sang mô hình Nhà nước hỗ trợ – phục vụ – kiến tạo phát triển thực chất.
Góp phần giảm bất bình đẳng vùng miền, vì mọi phường – xã đều trở thành “đơn vị phát triển nhỏ” của quốc gia.
Tóm lại, đột phá của đề xuất này nằm ở chỗ: biến cấp hành chính thấp nhất thành cấp sáng tạo nhất.
Phường – xã không còn là “nơi kết thúc dòng chảy quản lý”, mà trở thành nơi khởi nguồn của năng lượng phát triển, nơi Nhà nước – doanh nghiệp – người dân cùng đồng hành để tái tạo xã hội từ gốc. Đây không chỉ là một đề án mang tính tổ chức lại cấp cơ sở, mà là đề án cải cách nền tảng cấu trúc nhà nước – xã hội, chạm vào cách Nhà nước nhìn nhận, vận hành và tương tác với người dân.
Muốn thành công, nó phải được dẫn dắt bởi cơ quan có tầm chiến lược và khả năng điều phối liên ngành, đồng thời có một “hệ thống nghiên cứu – phản biện – thử nghiệm” đủ độc lập, minh triết và công tâm. I. CƠ QUAN CHỦ TRÌ: BỘ NỘI VỤ
Lý do lựa chọn:
Bộ Nội vụ là cơ quan chủ quản về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương, chức năng, nhiệm vụ, vị trí pháp lý của phường, xã, thị trấn.
Có quyền đề xuất sửa đổi các luật, nghị định liên quan đến Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Cán bộ, công chức, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật… – tức là nền tảng pháp lý của mô hình mới.
Là đầu mối hợp pháp để thử nghiệm mô hình quản trị công mới (có thể triển khai thí điểm trong khuôn khổ các “Đề án cải cách hành chính đặc thù”).
Vai trò chính:
Chịu trách nhiệm thiết kế mô hình khung, thẩm định thể chế, cơ chế vận hành, cơ chế tài chính, bộ tiêu chí đánh giá.
Là cơ quan trình Chính phủ và Ban Tổ chức Trung ương để xin chủ trương thí điểm.
II. CƠ QUAN ĐỒNG CHỦ TRÌ VỀ CHIẾN LƯỢC VÀ ĐỔI MỚI: BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Lý do lựa chọn:
Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về thúc đẩy đổi mới sáng tạo là nền tư tưởng của đề án này.
Bộ KH&CN có chức năng phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, ươm tạo sáng kiến xã hội, và là đầu mối Chương trình quốc gia về đổi mới sáng tạo.
Mô hình “Trung tâm đồng hành – sáng tạo – phát triển” thực chất là một không gian đổi mới thể chế ở cấp cơ sở – một dạng “sandbox thể chế cộng đồng”.
Vai trò chính:
Thiết kế hệ sinh thái sáng tạo địa phương, đưa chương trình “phường xã đổi mới sáng tạo” vào mạng lưới quốc gia.
Kết nối các viện nghiên cứu, doanh nghiệp công nghệ, trường đại học trong vùng để hỗ trợ từng mô hình thí điểm. III. CƠ QUAN PHỐI HỢP CHIẾN LƯỢC – CHÍNH TRỊ: BAN KINH TẾ TRUNG ƯƠNG
(hoặc Văn phòng Trung ương Đảng, nếu nâng lên cấp nghị quyết thí điểm)
Lý do:
Đây là cơ quan duy nhất có thể nhìn thấy ý nghĩa chiến lược của mô hình này trong tiến trình chuyển đổi Nhà nước Việt Nam, gắn với định hướng phát triển thể chế thị trường định hướng XHCN.
Ban Kinh tế Trung ương có thể đảm bảo tính đồng thuận chính trị – thể chế khi triển khai ở các địa phương khác nhau.
Vai trò chính:
Đề xuất chủ trương thí điểm trình Bộ Chính trị.
Theo dõi, giám sát, tổng kết mô hình để kiến nghị điều chỉnh thể chế ở tầm luật. V. CƠ QUAN NGHIÊN CỨU – PHẢN BIỆN – TƯ VẤN
Để đảm bảo tính công tâm, trí tuệ và thực tiễn, cần hình thành Liên minh nghiên cứu đổi mới cấp cơ sở, gồm ba trụ:
Học viện Hành chính Quốc gia – phụ trách khung tổ chức, quy trình, nhân sự.
Viện Quản lý phát triển (thuộc Bộ KH&ĐT) – phụ trách kinh tế, hợp tác công tư, sinh kế.
Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN (NISTPASS) – phụ trách hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và dữ liệu số.
Trường Chính trị TP.HCM hoặc Học viện Chính trị khu vực II – thí điểm đào tạo và chuyển đổi cán bộ phường xã theo triết lý mới.
Đại diện cộng đồng, doanh nghiệp địa phương, các tổ chức xã hội dân sự – tham gia phản biện chính sách và kiểm định tác động. NGUYÊN TẮC LÃNH ĐẠO VÀ THỰC HIỆN
Tầm nhìn chung: lấy Nghị quyết 57 làm nền triết lý – phường xã trở thành “đơn vị sáng tạo thể chế cấp cơ sở”.
Nguyên tắc thực hiện: “Thử nghiệm – đo lường – nhân rộng”, không mở rộng đại trà khi chưa có dữ liệu thực chứng.
Phương thức điều phối: liên ngành, liên vùng, có cơ chế phản hồi 2 chiều giữa Trung ương – địa phương.
Cam kết chính trị: các cơ quan phối hợp phải có trách nhiệm công khai, minh bạch, đánh giá định kỳ. Kính thưa Quý Ban,
Trong bối cảnh yêu cầu đổi mới sáng tạo và nâng cao hiệu quả quản trị địa phương theo tinh thần Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị, các cấp phường, xã hiện nay đang gặp nhiều điểm nghẽn cơ bản:
Hoạt động hành chính nặng về thủ tục, thiếu sự đồng hành thực chất với người dân và doanh nghiệp.
Phong trào, tuyên truyền, các hoạt động cộng đồng chủ yếu hình thức, chưa đo lường tác động thực tế đến đời sống người dân.
Cấu trúc tổ chức rời rạc, thiếu liên ngành, dẫn đến năng lực phối hợp và triển khai chính sách chưa hiệu quả.
Khả năng kết nối, hỗ trợ sinh kế, việc làm, sáng tạo cộng đồng còn hạn chế, chưa tận dụng tối đa nguồn lực địa phương.
Để giải quyết những bất cập trên và hiện thực hóa tầm nhìn Nhà nước kiến tạo, hỗ trợ, phục vụ phát triển, chúng tôi kính đề nghị Quý Ban xem xét và chỉ đạo thí điểm mô hình “Trung tâm Đồng hành – Sáng tạo – Phát triển” với các đặc trưng sau:
Chức năng:
Trung tâm điều phối nguồn lực địa phương, đồng hành cùng người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội.
Thúc đẩy phát triển sinh kế, nâng cao chất lượng đời sống, cải thiện không gian công cộng, và phát triển văn hóa – cộng đồng.
Mọi hoạt động được đánh giá bằng tác động thực tế, không chỉ dựa trên hình thức hay số lượng sự kiện.
Cơ quan chủ trì và phối hợp:
Bộ Nội vụ: Chủ trì thiết kế cơ cấu, chức năng, và cơ chế vận hành.
Bộ Tư pháp: Đảm bảo khung pháp lý, đề xuất sửa đổi luật, nghị định liên quan.
Bộ Khoa học và Công nghệ: Hỗ trợ xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và áp dụng công nghệ số trong vận hành trung tâm.
Nguyên tắc triển khai:
Thử nghiệm có kiểm soát, đánh giá tác động theo định lượng và định tính.
Liên ngành, liên vùng, minh bạch và công khai dữ liệu, báo cáo kết quả định kỳ.
Chuẩn hóa phương pháp, xây dựng chỉ số đo lường hiệu quả, bảo đảm khả năng nhân rộng sau thí điểm.
Chúng tôi tin rằng mô hình này sẽ tạo ra đột phá thực chất, gỡ bỏ các điểm nghẽn cơ bản của phường – xã hiện nay, đồng thời là mẫu hình cho các cấp cơ sở khác trong cả nước, hướng tới quản trị công minh bạch, sáng tạo và phục vụ cộng đồng hiệu quả.
Kính đề nghị Quý Ban xem xét và có chỉ đạo để ba Bộ đồng hành, phối hợp nghiên cứu, triển khai thí điểm mô hình này trong thời gian sớm nhất.
Trân trọng cảm ơn và kính chúc Quý Ban sức khỏe, thành công trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo!
Người kiến nghị
#
Người gửi: TRƯƠNG NAM THUẬN Thời gian gửi: 10/11/2025
Tôi đã phản ánh nhiều lần, mấy quán kinh doanh tòa nhà Bình Đông Xanh 557 Bến Bình Đông chiếm dụng toàn bộ lề đường 100%, không cho ai đi, sau khi cơ quan làm việc, họ còn thách thức, cho xe xuống lòng đường luôn. Luật pháp có còn không? Cán bộ địa phương có làm việc không?
#
Người gửi: Lý Tường Luân Thời gian gửi: 07/11/2025
I. Vì sao phải bắt đầu từ ba Bộ trụ cộtBa Bộ: Nội vụ, Tư pháp, Tài chính là ba “đốt sống cổ” của toàn bộ thể chế. Mỗi chính sách, nghị quyết, hay quyết định cải cách đều phải đi qua ít nhất một trong ba khâu này: tổ chức – pháp lý – nguồn lực.
Nếu ba đốt sống này vẫn cứng, cơ thể quốc gia không thể cúi xuống, không thể rẽ hướng, không thể bước nhanh. Cải cách dù có ý chí chính trị mạnh đến đâu cũng sẽ bị kẹt trong cấu trúc hành chính, quy trình pháp lý và cơ chế tài chính cũ.Bộ Nội vụ nắm quyền sắp xếp, đánh giá, và kiểm soát bộ máy. Nhưng chính cơ chế “quản lý theo ngạch, bậc, quy trình” khiến con người bị trói trong chức danh chứ không được khuyến khích theo năng lực. Không ai sai, nhưng toàn bộ hệ thống vận hành theo logic nội bộ, không theo mục tiêu phục vụ dân.Bộ Tư pháp giữ vai trò kiểm soát tính hợp pháp, nhưng vì sợ sai, sợ rủi ro, luật lại càng bị viết chặt, dẫn đến luật hóa cả những điều lẽ ra nên để xã hội tự điều chỉnh. Không có không gian thử nghiệm, cái mới bị loại ngay từ khâu soạn thảo.Bộ Tài chính nắm toàn bộ mạch máu của nền kinh tế công. Nhưng lâu nay, cơ chế thu – chi ngân sách, quy định chi tiêu, kế toán công đều được thiết kế để tránh thất thoát hơn là tối ưu hóa phát triển. Tài chính quốc gia trở thành “bảng cân đối thu chi”, thay vì “cỗ máy dẫn dòng giá trị xã hội”.Nếu ba bộ này không đổi triết lý, mọi nỗ lực cải cách khác — từ quy hoạch, đầu tư, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đến chính quyền đô thị — đều chỉ chạm phần ngọn, không thay được phần gốc.II. Không phải lỗi của họ, mà là nếp nghĩ của cả một thờiCần nhìn nhận công bằng: đây không phải lỗi cá nhân hay nhóm lợi ích, mà là sản phẩm của lịch sử thể chế.
Chúng ta từng bước qua giai đoạn hậu chiến, tái thiết đất nước, rồi hội nhập kinh tế. Trong từng thời đoạn đó, các quy định của ba bộ được hình thành để bảo đảm trật tự, giữ kỷ cương, tránh rủi ro, điều đó là cần thiết khi nền kinh tế – xã hội còn yếu.
Nhưng khi đất nước đã đi vào thời kỳ hội nhập sâu, phát triển vùng đô thị, cạnh tranh toàn cầu, thì thói quen bảo toàn ấy trở thành xiềng xích.
Hệ thống vẫn hành xử như thể mỗi bộ là một “pháo đài” độc lập, tự bảo vệ mình, sợ bị sai, sợ bị kiểm điểm.
Thế là mọi quy trình đều nặng về kiểm tra, thanh tra, báo cáo, thẩm định, xin ý kiến. Không ai dám làm khác, vì cái gì khác đều “chưa có trong luật”.
Kết quả là: mọi đổi mới đều bị cắt ngắn, mọi sáng kiến bị làm cho an toàn, mọi cải cách bị trơn tru hóa đến mức vô hiệu.III. Tinh thần Nghị quyết 57: chuyển từ "hệ thống bảo toàn" sang "hệ thống kiến tạo"Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị là lời nhắc mạnh mẽ rằng: muốn đất nước phát triển thực chất, không thể chỉ chỉnh sửa từng bộ luật, từng nghị định, mà phải thay đổi nền triết học điều hành quốc gia.
Nó yêu cầu bộ máy phải vượt qua logic của sự an toàn, tiến đến logic của giá trị tạo ra cho người dân, doanh nghiệp và xã hội.
Đó không chỉ là cải cách thể chế, mà là cải cách tư duy làm chính sách.Vì vậy, việc tiếp cận ba bộ này không phải để chỉ trích, mà để mở khóa tư duy.Với Bộ Nội vụ, là mở khóa cho con người – để họ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.Với Bộ Tư pháp, là mở khóa cho thể chế – để pháp luật trở thành hành lang khai phóng chứ không phải hàng rào cấm đoán.Với Bộ Tài chính, là mở khóa cho nguồn lực – để tiền công, tài sản công chảy về nơi tạo ra giá trị thật.Chỉ khi ba bộ này cùng chuyển động, hệ thống sẽ đạt “độ đàn hồi thể chế” – có thể thay đổi nhanh nhưng vẫn ổn định, sáng tạo nhưng vẫn kỷ cương.IV. Đột phá không nằm ở hành động lớn, mà ở thay đổi cách nghĩMuốn phá vỡ cấu trúc cũ, không cần ban hành thêm hàng trăm văn bản mới. Điều cần nhất là thay đổi triết lý làm luật:Từ kỹ thuật sang mục tiêu;Từ thuận lợi cho quản lý sang thuận lợi cho phát triển;Từ phòng thủ sang khai phóng.Ba Bộ cần được giao nhiệm vụ chính trị cấp cao: “Rà soát lại toàn bộ hệ thống luật, quy định, thủ tục do mình quản lý, với câu hỏi duy nhất:Quy định này tạo ra giá trị gì cho người dân và cho sự phát triển?”Nếu câu trả lời là “để đảm bảo đúng quy trình” – thì phải viết lại. I. CƠ SỞ PHÁP LÝ
1. Hiến pháp năm 2013
Điều 2 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.
→ Đây là nền tảng để xác lập rằng mọi cơ cấu tổ chức, pháp luật và chính sách tài chính đều phải hướng tới phục vụ con người, chứ không nhằm bảo vệ bộ máy.
Điều 8 quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân.”
→ Như vậy, mục tiêu “Nhà nước phục vụ” đã được hiến định, tạo cơ sở cho việc định hướng lại triết lý xây dựng luật, cơ cấu tổ chức và cơ chế tài chính.
2. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 16/6/2024 của Bộ Chính trị
Đây là văn bản có giá trị chỉ đạo chính trị cao nhất về cải cách thể chế trong giai đoạn 2024–2030, nêu rõ:
“Xây dựng bộ máy hiệu quả, thống nhất, tinh gọn, lấy hiệu quả phục vụ Nhân dân và thúc đẩy phát triển làm thước đo.”
Nghị quyết yêu cầu:
Rà soát, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm tính khả thi, đồng bộ và linh hoạt.
Tăng cường trách nhiệm của Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính trong việc cải cách thể chế và cơ chế vận hành của Nhà nước.
→ Đây chính là căn cứ pháp lý trực tiếp cho việc tiếp cận ba Bộ như “ba trụ thể chế cần đột phá”.
3. Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN (Ban hành kèm Quyết định 149/QĐ-TTg năm 2022)
Chiến lược nêu rõ mục tiêu:
“Xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, phục vụ Nhân dân; chuyển từ quản lý sang kiến tạo và phát triển.”
→ Đây là điểm giao cắt giữa cải cách hành chính (Bộ Nội vụ), pháp lý (Bộ Tư pháp) và tài chính công (Bộ Tài chính).
4. Nghị quyết 27-NQ/TW về cải cách chính sách tiền lương và Nghị quyết 19-NQ/TW về sắp xếp tổ chức bộ máy
→ Hai văn bản này đều giao nhiệm vụ cho Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính phải cải cách cơ chế nhân sự và nguồn lực công theo hướng hiệu quả, tạo động lực phát triển.
→ Đây là vòng móc pháp lý liên ngành, chứng minh việc yêu cầu ba Bộ phối hợp không phải là ý tưởng chính trị mới, mà là nhiệm vụ đã được Đảng giao nhưng chưa thực thi triệt để.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Lý luận về chuyển đổi mô hình Nhà nước
Từ cuối thế kỷ XX, các quốc gia đều trải qua quá trình chuyển từ Nhà nước hành chính – quản lý sang Nhà nước kiến tạo – phục vụ.
Theo lý thuyết của Osborne & Gaebler (1992) về “Reinventing Government”, Nhà nước cần chuyển từ:
“Direct control” sang “steering” (điều phối phát triển);
“Rule-based management” sang “value-based management” (quản trị dựa trên giá trị, không chỉ quy tắc);
“Administrative state” sang “Developmental state”.
Áp dụng vào Việt Nam, ba Bộ chủ chốt (Nội vụ – Tư pháp – Tài chính) chính là các trụ điều hành mô hình Nhà nước, nên việc chuyển đổi triết lý và phương pháp lập pháp của họ là yêu cầu tất yếu.
2. Lý luận về thể chế phát triển (Developmental Institutionalism)
Theo Dani Rodrik, Acemoglu & Robinson, thể chế phát triển là thể chế có tính bao trùm, năng động và khuyến khích sáng tạo xã hội.
Muốn có thể chế như vậy, ba yếu tố cốt lõi phải vận hành đồng bộ:
Thiết kế bộ máy linh hoạt (Bộ Nội vụ),
Pháp luật mở, khuyến khích cái mới (Bộ Tư pháp),
Tài chính phân bổ nguồn lực cho sáng tạo (Bộ Tài chính).
→ Nếu một trong ba yếu tố này bị “đóng”, toàn bộ thể chế rơi vào trạng thái trì trệ cấu trúc – điều Việt Nam đang gặp phải.
3. Lý luận về cải cách thể chế theo hướng phục vụ
Các nghiên cứu của OECD và UNDP đều khẳng định: hiệu quả thể chế không nằm ở số lượng luật, mà nằm ở độ gắn kết giữa luật và nhu cầu phát triển thực tế.
Do đó, thay vì cải cách cục bộ, cần một đổi mới đồng bộ triết lý – mục tiêu – phương pháp làm luật, lấy “phục vụ người dân” làm mục tiêu, “tính khả thi” làm thước đo, và “đồng kiến tạo” làm phương pháp. III. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Những ách tắc thực tế của thể chế hiện hành
Bộ Nội vụ: Mô hình tổ chức hành chính 4 cấp (Trung ương – Tỉnh – Huyện – Xã) không còn phù hợp với không gian kinh tế vùng. Việc đánh giá cán bộ theo quy trình và thâm niên khiến nguồn lực con người bị kìm hãm, thiếu sáng tạo.
Bộ Tư pháp: Quy trình xây dựng, thẩm định luật kéo dài, nhiều tầng nấc, khiến các chính sách thử nghiệm bị chặn từ khâu pháp lý. Luật Ban hành VBQPPL hiện hành gần như “đóng cửa” với đổi mới sáng tạo.
Bộ Tài chính: Cơ chế ngân sách cứng, định mức chi theo đầu người, không gắn với hiệu quả, khiến địa phương không thể huy động linh hoạt nguồn lực phát triển.
Những vấn đề này trực tiếp cản trở việc thực thi Nghị quyết 57, khi nghị quyết yêu cầu “bộ máy hiệu quả, thể chế linh hoạt, tài chính kiến tạo”.
2. Thực tiễn địa phương và quốc tế
TP.HCM, Đà Nẵng, Bình Dương đều đang kêu gọi cơ chế đặc thù vì thể chế hiện hành không cho phép sáng tạo.
Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản từng trải qua cải cách tương tự: họ chỉ tập trung “cải cách ba Bộ trung tâm”, sau đó toàn hệ thống tự vận hành theo tư duy mới.
→ Đây là cơ sở thực chứng rõ ràng: nếu Việt Nam không điều chỉnh triệt để ba Bộ này, mọi cải cách khác chỉ dừng ở bề mặt, không thể đạt hiệu quả lan tỏa.
KẾT LUẬN: TÍNH CẦN THIẾT VÀ CHÍNH ĐÁNG CỦA CẢI CÁCH
Cơ sở pháp lý, lý luận và thực tiễn đều dẫn đến một kết luận thống nhất:
Muốn thực hiện Nghị quyết 57, Việt Nam phải tái thiết tư duy lập pháp và vận hành thể chế bắt đầu từ ba Bộ: Nội vụ, Tư pháp, và Tài chính.
Đây không phải là hành động phê phán, mà là một bước tiến tự nhiên của tiến trình hiện đại hóa nhà nước – chuyển từ hệ thống quản lý hành chính sang hệ thống hỗ trợ, đồng kiến tạo và phục vụ phát triển. 1. Bộ Nội vụ – điểm nghẽn nằm trong Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Cán bộ, Công chứcLuật chủ chốt:Luật Tổ chức Chính phủ (2015, sửa đổi 2019)Luật Cán bộ, công chức và viên chức (2008, sửa đổi 2019)Điểm nghẽn chính:Luật này quy định cấu trúc hành chính cứng, phân tầng, thiếu linh hoạt, tạo ra “vỏ k kỷ luật”, chứ không phải “khung điều phối năng động”.
Ba vấn đề lớn:Chưa có cơ chế “trao quyền linh hoạt” cho các địa phương, tổ chức vùng, hay đơn vị thí điểm.
→ Mọi việc đều phải “xin phép” hoặc “chờ hướng dẫn”, khiến địa phương bị động, dù năng lực thực thi đủ mạnh.Cơ chế đánh giá công chức dựa trên hồ sơ hành chính, không dựa trên kết quả tác động thực tế.
→ Dẫn đến bộ máy “làm đủ thủ tục là xong”, không cần đổi mới.Không có hành lang pháp lý cho “cán bộ vùng” hay “liên thông nhân sự giữa các tỉnh – bộ”.
→ Khi Nghị quyết 57 yêu cầu phối hợp vùng, các địa phương vẫn bị ràng buộc bởi “biên chế tỉnh”, không thể hình thành đội ngũ điều phối liên ngành, liên tỉnh.=> Bộ Nội vụ chính là “nút thắt " : nắm người, nắm quy trình, nhưng chưa biết “mềm” để sinh khí đổi mới.2. Bộ Tư pháp – điểm nghẽn nằm trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luậtLuật chủ chốt:Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (2015, sửa đổi 2020)Điểm nghẽn chính:Luật này đặt ra một quy trình cực kỳ chặt chẽ, nhằm đảm bảo tính hợp hiến – hợp pháp, nhưng lại thiếu cơ chế thử nghiệm, linh hoạt, và điều chỉnh nhanh.
Ba vấn đề cụ thể:Không có cơ chế “pháp luật thử nghiệm (sandbox)” cho chính sách đổi mới.
→ Khi Nghị quyết 57 cho phép “xử lý vướng mắc do quy định pháp luật”, Bộ Tư pháp vẫn không có khung pháp lý cho việc “vượt khung tạm thời”, nên mọi đề xuất đổi mới đều bị dừng lại vì “chưa có luật quy định”.Tư duy “soát xét – kiểm tra – phê chuẩn” vẫn là trung tâm.
→ Tư pháp chưa trở thành “người thiết kế giải pháp”, mà vẫn chỉ làm “người gác cổng”.Thủ tục ban hành nghị định, thông tư liên bộ quá rườm rà, khiến các nghị quyết cấp cao không được chuyển hóa nhanh xuống hành động.=> Bộ Tư pháp là “trật tự của văn bản ”: giữ gìn tính ổn định, nhưng đang trở thành “vỏ cứng ngăn mầm nảy”.3. Bộ Tài chính – điểm nghẽn nằm trong Luật Ngân sách Nhà nước và Luật Quản lý tài sản côngLuật chủ chốt:Luật Ngân sách Nhà nước (2015)Luật Quản lý, sử dụng tài sản công (2017)Điểm nghẽn chính:Luật Tài chính hiện nay vẫn duy trì cơ chế “xin – cho” ngân sách và cào bằng phân bổ, thay vì “trao quyền tài chính linh hoạt” cho các chương trình chiến lược.
Ba vấn đề nổi bật:Phân bổ ngân sách theo đầu mối hành chính, không theo nhiệm vụ phát triển.
→ Các đề án cải cách, thí điểm vùng, hay mô hình mới không có dòng ngân sách riêng, nên không thể triển khai.Không có cơ chế “tạm ứng – hoàn trả – chia sẻ rủi ro” giữa Trung ương và địa phương.
→ Khi có chủ trương đổi mới, Bộ Tài chính luôn yêu cầu “nguồn đối ứng rõ ràng”, khiến các mô hình vùng bị bó cứng.Quản lý tài sản công quá chặt, không cho phép sử dụng linh hoạt tài sản đất công, hạ tầng công trong các dự án sáng tạo, xã hội hóa.
→ Điều này khiến việc huy động nguồn lực xã hội cho các chương trình nghị quyết trở nên gần như bất khả.=> Bộ Tài chính là “mạch máu của nền kinh tế ”: nếu không đổi cách lưu thông, cơ thể dù khỏe cũng bị tắc.I. BỘ NỘI VỤ – LUẬT TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH VÀ NHÂN SỰ HÀNH CHÍNH1. Hệ thống các luật chủ chốt do Bộ Nội vụ quản lýLuật Tổ chức Chính phủ (2015, sửa đổi 2019)Luật Tổ chức chính quyền địa phương (2015, sửa đổi 2019, 2023)Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức (2008, sửa đổi 2019)Luật Thi đua – Khen thưởng (2022)Luật Ban hành quy chế làm việc của Chính phủ và cơ quan nhà nước (dưới luật, thuộc thẩm quyền soạn thảo Bộ Nội vụ)2. Điểm nghẽn cấu trúc(a) Cơ cấu quyền lực theo chiều dọc: phân tầng cứng giữa Trung ương – Bộ – Địa phương, khiến không có tầng “điều phối vùng” hay “liên kết ngang”.
(b) Hệ thống chức năng – nhiệm vụ của Bộ, ngành, địa phương được quy định bằng danh mục đóng, không cho phép thử nghiệm hoặc mở rộng linh hoạt.
(c) Cơ chế nhân sự hành chính bị “công chức hóa” mọi vị trí, không cho phép tổ chức đội ngũ chuyên gia, điều phối viên, nhân sự hợp đồng chuyên môn cao cấp cho các chương trình đổi mới.
(d) Cơ chế đánh giá – khen thưởng dựa vào hồ sơ – quy trình, không dựa vào tác động thực tế đến đời sống, cải cách hay sáng tạo.3. Hướng sửa đổi – tinh thần cần thấmChuyển từ cơ chế “phân cấp” sang “phân quyền thực chất”, kèm cơ chế giám sát kết quả thay vì kiểm soát thủ tục.Thừa nhận mô hình tổ chức vùng, tổ chức liên thông, liên ngành (thí dụ: Ban điều phối vùng, Tổ công tác liên bộ), có tư cách pháp lý và tài chính riêng.Tái định nghĩa công vụ: mở đường cho “công chức đổi mới – công vụ linh hoạt – hợp đồng năng lực”.Đưa cơ chế “đánh giá theo tác động” (impact-based evaluation) thay cho đánh giá theo hồ sơ.
→ Tinh thần: Mềm hóa bộ máy, chuyển từ hành chính kiểm soát sang hành chính hỗ trợ – thích ứng. II. BỘ TƯ PHÁP – LUẬT VỀ BAN HÀNH, THẨM ĐỊNH VÀ KIỂM SOÁT PHÁP LUẬT1. Hệ thống các luật chủ chốt do Bộ Tư pháp quản lýLuật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (2015, sửa đổi 2020)Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật (2012)Luật Tương trợ tư pháp (2007, sửa đổi 2023)Luật Thi hành án dân sự, Luật Công chứng, Luật Giám định tư pháp, Luật Luật sư (đều thuộc phạm vi quản lý)2. Điểm nghẽn cấu trúc(a) Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định quy trình chặt – tầng tầng lớp lớp thẩm định, khiến mọi sáng kiến “vượt khung luật hiện hành” bị chặn ngay từ đầu.
(b) Không có khung pháp lý cho “chính sách thử nghiệm” (sandbox), tức không thể tạm thời cho phép áp dụng quy định mới trong một phạm vi hẹp để rút kinh nghiệm.
(c) Cơ chế pháp điển hóa mang tính “bảo tồn”, khiến quá trình sửa đổi – bổ sung luật luôn chạy sau đời sống thực tế.
(d) Văn hóa pháp lý trong bộ máy Tư pháp vẫn nghiêng về “kiểm tra – hợp lệ – gác cổng”, chưa chuyển sang vai trò “thiết kế pháp lý – hỗ trợ triển khai đổi mới”.3. Hướng sửa đổi – tinh thần cần thấmBổ sung chương về “pháp luật thí điểm và đổi mới sáng tạo” trong Luật Ban hành VBQPPL.Cho phép Chính phủ, Thủ tướng hoặc Quốc hội ra “Nghị quyết thử nghiệm có thời hạn”, được thực hiện trước khi hoàn thiện luật.Thay đổi cơ chế thẩm định: từ “xét duyệt hợp lệ” sang “đồng kiến tạo quy định với các Bộ – ngành và địa phương”.Thiết lập Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ pháp lý đổi mới (Legal Innovation Hub) trực thuộc Bộ.
→ Tinh thần: Pháp lý phải chuyển từ “gác cửa” sang “mở đường”, từ “phản ứng” sang “kiến tạo chủ động”. III. BỘ TÀI CHÍNH – LUẬT VỀ NGÂN SÁCH, TÀI SẢN, ĐẦU TƯ CÔNG1. Hệ thống các luật chủ chốt do Bộ Tài chính quản lýLuật Ngân sách Nhà nước (2015)Luật Quản lý, sử dụng tài sản công (2017)Luật Quản lý thuế (2019)Luật Giá (2023)Luật Kế toán (2015)Luật Bảo hiểm, Quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách (dưới luật)2. Điểm nghẽn cấu trúc(a) Luật Ngân sách Nhà nước duy trì mô hình phân bổ theo đầu mối hành chính, không theo chương trình, nhiệm vụ hay kết quả phát triển, làm mất linh hoạt của các chương trình cải cách.
(b) Không có cơ chế “ngân sách vùng – ngân sách linh hoạt – ngân sách dự phòng cho cải cách”; mọi chi tiêu đều phải “định danh nguồn, định mức, định hạng mục”.
(c) Luật Quản lý tài sản công quá chặt, coi tài sản công chỉ là “của Nhà nước”, không cho phép cơ chế sử dụng linh hoạt, hợp tác công – tư, hoặc khai thác giá trị xã hội – cộng đồng.
(d) Tư duy “xin – cho ngân sách” vẫn là chủ đạo, cản trở các địa phương mạnh dạn huy động nguồn lực ngoài ngân sách.3. Hướng sửa đổi – tinh thần cần thấmThiết lập cơ chế ngân sách theo chương trình (Program-based budgeting), cho phép chi dựa theo mục tiêu kết quả thay vì hạng mục.Cho phép hình thành “Quỹ phát triển vùng, Quỹ cải cách thể chế” từ ngân sách Trung ương.Mở rộng phạm vi sử dụng tài sản công cho các hoạt động xã hội, sáng tạo, và cộng đồng (co-management, public trust).Tăng quyền tự chủ tài chính cho địa phương, kèm cơ chế giám sát minh bạch theo kết quả.
→ Tinh thần: Tài chính phải trở thành “nguồn lực lưu thông”, không phải “khóa sổ kiểm soát”. V. Tinh thần sửa đổi thống nhất:Ba Bộ, ba hệ luật, nhưng chung một yêu cầu:Từ kiểm soát sang hỗ trợ – từ hợp lệ sang hiệu quả – từ hành chính sang kiến tạo.Đây cũng chính là “tinh thần cốt lõi của Nghị quyết 57” mà Bộ Chính trị đặt ra:Cho phép vượt khung khi khung gây cản trở phát triển;Thúc đẩy phân quyền thực chất gắn với trách nhiệm giải trình;Chuyển đổi toàn bộ hệ thống thể chế từ tĩnh sang động, từ phòng thủ sang sáng tạo.I. BỘ NỘI VỤ – XÂY DỰNG LUẬT TRÊN NỀN TRIẾT LÝ NHÀ NƯỚC HỖ TRỢ, KHÔNG PHẢI NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ1. Triết lý cần bổ sungLuật về tổ chức bộ máy và công vụ không thể chỉ nhằm “quản lý cho đúng quy trình” mà phải chuyển sang “kiến tạo điều kiện để xã hội và con người phát triển”.
Tức là, thay vì hỏi “cơ quan nào chịu trách nhiệm”, cần hỏi “cơ quan nào tạo ra giá trị cho dân”. Nhà nước không đứng ở trung tâm quyền lực, mà là nền tảng hỗ trợ cộng đồng tự vận hành hiệu quả.2. Mục tiêu xây dựng luậtTạo ra một bộ máy linh hoạt, hiệu quả, giảm tầng nấc, tăng năng lực điều phối giữa các bên. Luật phải định hướng tái cấu trúc nền hành chính từ “xin – cho” sang “đồng hành – phục vụ”.
Các luật thuộc Bộ Nội vụ cần sửa theo hướng này gồm:Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương: bỏ tư duy phân quyền theo hành chính cứng, chuyển sang mô hình chính quyền linh hoạt theo vùng chức năng.Luật Cán bộ, công chức: chuyển từ chế độ “ngạch bậc” sang cơ chế hợp đồng trách nhiệm và năng lực đầu ra.Luật Hội, Luật Công vụ công chức, Luật Viên chức: bổ sung cơ chế đánh giá theo giá trị công dân và kết quả phục vụ, không theo hồ sơ, bằng cấp hay thâm niên.3. Phương pháp xây dựng luậtÁp dụng phương pháp đồng thiết kế thể chế, tức mời chính quyền địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp và người dân tham gia vào quy trình xây dựng.Không viết luật theo “bộ máy hiện có” mà mô phỏng hành vi thực tế của xã hội, lấy thực tiễn làm căn cứ, tránh luật hóa quy trình nội bộ của Bộ.II. BỘ TƯ PHÁP – TỪ KIỂM SOÁT PHÁP LÝ SANG KHAI PHÓNG PHÁP LÝ1. Triết lý cần bổ sungPháp luật không chỉ để kiểm soát rủi ro mà để mở đường cho cái mới, bảo vệ sáng tạo và khuyến khích thử nghiệm. Bộ Tư pháp phải là “Bộ của cải cách”, không phải “Bộ của phê duyệt”.2. Mục tiêu xây dựng luậtChuyển trọng tâm từ “ràng buộc để an toàn” sang “trao quyền để phát triển”.
Các luật đang gây điểm nghẽn:Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật: quá nặng về quy trình, khiến cải cách bị chậm. Cần sửa theo hướng linh hoạt, cho phép thử nghiệm pháp lý có kiểm soát (sandbox thể chế).Luật Thanh tra, Luật Kiểm tra, Luật Giám sát: hiện tập trung vào kiểm lỗi, cần chuyển sang đánh giá tác động phát triển – tức là không hỏi “anh sai ở đâu?” mà hỏi “anh làm có lợi gì cho dân?”.Luật Dân sự, Luật Hành chính: cần cho phép đa dạng hóa mô hình quản trị địa phương, mở không gian cho các dạng thể chế cộng đồng, hợp tác xã, doanh nghiệp xã hội.3. Phương pháp xây dựng luậtÁp dụng tư duy hệ sinh thái pháp lý, tức mỗi luật phải tương tác được với nhiều lĩnh vực khác thay vì tách rời theo chuyên ngành.Dùng phương pháp “luật mở”, quy định khung nguyên tắc, ủy quyền chi tiết cho chính quyền vùng và địa phương thí điểm, thay vì viết quá chặt từ đầu.III. BỘ TÀI CHÍNH – TỪ CƠ CHẾ THU – CHI SANG CƠ CHẾ TẠO DÒNG CHẢY GIÁ TRỊ1. Triết lý cần bổ sungTài chính công không chỉ là quản lý ngân sách, mà là công cụ tạo dòng chảy nguồn lực cho phát triển dài hạn.
Nhà nước không chỉ thu – chi, mà điều tiết, dẫn dắt, và nhân đôi giá trị xã hội qua cơ chế tài chính thông minh.2. Mục tiêu xây dựng luậtXây dựng hệ thống tài chính quốc gia hướng tới phân bổ nguồn lực công bằng, hiệu quả và khuyến khích sáng tạo.
Các luật cần điều chỉnh:Luật Ngân sách Nhà nước: bỏ cơ chế xin – cấp, thay bằng phân quyền tài chính theo hiệu quả đầu tư công và năng lực thực thi địa phương.Luật Quản lý, sử dụng tài sản công: bổ sung cơ chế đồng quản lý và khai thác tài sản công – tư, hướng đến hiệu quả cộng đồng thay vì sở hữu hành chính.Luật Thuế, Luật Đầu tư công: cần chuyển từ “thu cho chắc, chi cho đúng” sang “thu để nuôi dưỡng nguồn lực, chi để tạo động lực xã hội”.3. Phương pháp xây dựng luậtDùng phương pháp đánh giá tác động xã hội và vùng lãnh thổ trước khi viết luật, để tránh luật tài chính cắt rời quy hoạch, thị trường và con người.Xây dựng luật tài chính như một cơ chế vận hành hệ sinh thái phát triển, chứ không như sổ kế toán của Nhà nước.Ba Bộ trên phải cùng chuyển từ “tư duy kỹ thuật – hành chính” sang “tư duy phát triển – phục vụ”.
Nói ngắn gọn:Bộ Nội vụ lo con người và bộ máy phát triển;Bộ Tư pháp lo thể chế mở đường;Bộ Tài chính lo dòng chảy nguồn lực nuôi dưỡng phát triển.Cả ba phải cùng tuân theo một triết lý cốt lõi:Luật không chỉ để quản lý xã hội đang có, mà để mở đường cho xã hội đang tới.KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC TIẾP CẬN VÀ CẢI CÁCH TOÀN DIỆN 3 BỘ CHỦ CHỐT TRONG THI HÀNH NGHỊ QUYẾT 57
Kính gửi: Ban Chính sách Chiến lược Trung ương
Kính thưa Ban Chính sách Chiến lược Trung ương,
Thực hiện tinh thần Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đổi mới phương thức lãnh đạo, cơ chế vận hành và tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị, chúng tôi nhận thấy: để nghị quyết thực sự đi vào đời sống, cần có một bước đột phá mạnh mẽ trong cách thức vận hành thể chế – cụ thể là cách xây dựng và thực thi pháp luật của ba bộ chủ chốt: Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính.
Ba bộ này không chỉ là cơ quan quản lý chuyên ngành, mà chính là trụ cột cấu trúc thể chế, nơi định hình toàn bộ cơ chế tổ chức, hành chính và tài chính quốc gia. Trong thực tiễn triển khai, chính tại đây đang tồn tại những điểm nghẽn mang tính hệ thống, khiến tinh thần đổi mới của Nghị quyết 57 chưa thể lan tỏa và được hiện thực hóa đồng bộ.
1. Lý do cần tiếp cận và cải cách triệt để ba bộ này
Những điểm nghẽn không nằm ở năng lực hay thiện chí của cán bộ, mà ở thói quen tư duy quản lý hành chính cũ – lấy an toàn, kiểm soát và quyền hạn làm trung tâm, thay vì lấy kết quả phát triển, con người và lợi ích công cộng làm mục tiêu tối hậu.
Bộ Nội vụ hiện vẫn vận hành trong khuôn khổ “tổ chức để quản lý”, chưa chuyển sang “tổ chức để kiến tạo và phục vụ”.
Bộ Tư pháp vẫn duy trì phương pháp làm luật thiên về kỹ thuật và tính hợp lệ, trong khi thiếu nền tảng triết lý và phương pháp tiếp cận chính sách theo mục tiêu phát triển.
Bộ Tài chính vẫn giữ tư duy quản lý tài chính – ngân sách theo hướng “kiểm soát chi tiêu”, chưa thật sự chuyển sang “điều phối và kích hoạt nguồn lực”.
Chính vì vậy, dù các văn bản luật, nghị định, thông tư đều được xây dựng công phu, nhưng vẫn thiếu tính kết nối, thiếu triết lý thống nhất và không tạo ra động lực hành động mới cho toàn hệ thống.
2. Cơ sở pháp lý và lý luận cho việc cải cách này
Cơ sở pháp lý: Hiến pháp 2013 khẳng định “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”; đồng thời Nghị quyết 57 yêu cầu đổi mới căn bản phương thức lãnh đạo và tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả, kiến tạo phát triển. Điều này đòi hỏi hệ thống pháp luật và cơ chế vận hành phải được tái cấu trúc tương thích.
Cơ sở lý luận: Các lý thuyết quản trị hiện đại (New Public Governance, Adaptive Governance, Human-centered Policy Design) đều khẳng định: muốn đổi mới thực sự, cần chuyển từ “nhà nước kiểm soát” sang “nhà nước hỗ trợ và đồng kiến tạo”. Việc cải cách ba bộ này chính là khâu trọng yếu để thể chế Việt Nam bước sang mô hình nhà nước phát triển trong thế kỷ XXI.
3. Kiến nghị định hướng triển khai
Ban Chính sách Chiến lược Trung ương tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo Chính phủ triển khai một chương trình cải cách thể chế tổng thể, tập trung vào ba định hướng lớn đối với ba bộ chủ chốt nêu trên:
Bổ sung triết lý trong xây dựng và thực thi pháp luật:
Mọi văn bản luật cần được hình thành từ triết lý “Nhà nước hỗ trợ – xã hội đồng kiến tạo”, không chỉ nhằm kiểm soát mà phải tạo không gian cho phát triển.
Bổ sung mục tiêu trong quy trình làm luật:
Mục tiêu của mỗi luật không dừng ở tính hợp pháp, mà phải gắn với tác động phát triển thực tế, đo lường được bằng kết quả xã hội, kinh tế và môi trường.
Bổ sung phương pháp trong tổ chức thực hiện luật:
Chuyển từ mô hình xây dựng luật theo “ngành thuận lợi” sang mô hình “vấn đề trung tâm” – liên ngành, linh hoạt, có cơ chế phản hồi và điều chỉnh liên tục từ thực tiễn.
4. Kỳ vọng và giá trị đột phá
Nếu thực hiện được, đây sẽ là bước chuyển nền tảng của thể chế Việt Nam, từ hệ thống quản trị hành chính sang hệ thống quản trị phát triển, nơi pháp luật không còn là rào cản mà trở thành nguồn lực thúc đẩy sáng tạo, hiệu quả và đồng thuận xã hội. Ba bộ này, khi được định vị lại đúng vai trò, sẽ không chỉ “quản lý” mà sẽ trở thành “bộ máy thúc đẩy đổi mới thể chế” – trụ cột của một Nhà nước kiến tạo trong thời đại mới.
Kính mong Ban Chính sách Chiến lược Trung ương xem xét, phân tích, tham mưu và đề xuất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo Chính phủ và các bộ, ngành liên quan triển khai chương trình cải cách này một cách tổng thể, toàn diện, mạnh mẽ và triệt để, như một phần trọng tâm trong việc thực hiện Nghị quyết 57.
Trân trọng kính gửi.
#
Người gửi: TRƯƠNG NAM THUẬN Thời gian gửi: 07/11/2025
Vì sao cần có một cơ quan chuyên trách – “Bộ Hiệu quả cao” – để tái cấu trúc toàn bộ bộ máy hành chính Việt Nam hiện nay
Trong suốt nhiều năm qua, Việt Nam đã kiên trì thực hiện các chương trình cải cách hành chính, tinh gọn bộ máy, sắp xếp tổ chức, cải thiện năng lực quản lý nhà nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dù có hàng loạt nghị quyết, luật, nghị định, kế hoạch được ban hành, bộ máy vẫn vận hành chậm chạp, kém hiệu quả và ngày càng bộc lộ những giới hạn nội tại. Đằng sau vẻ ngoài “đang đổi mới” là một hệ thống nhiều tầng nấc, chồng chéo, thiếu trách nhiệm và thiếu tiêu chuẩn đo lường hiệu quả thực sự.
Vấn đề không còn nằm ở năng lực con người hay thiếu ý chí, mà nằm ở cấu trúc hệ thống và cơ chế vận hành, vốn được thiết kế cho một thời kỳ khác. Khi nền kinh tế, xã hội, công nghệ và cách thức tương tác của người dân đã thay đổi hoàn toàn, bộ máy hành chính vẫn vận hành theo cách cũ: xử lý theo hồ sơ, kiểm soát theo quy trình, đánh giá theo hình thức. Chính vì vậy, mọi cải cách từ bên trong đều chỉ dừng lại ở việc “làm sạch bàn làm việc cũ”, chứ chưa bao giờ dám thay chiếc bàn. I. Bế tắc trong cách vận hành hiện nay
Tư duy quản lý thay vì tư duy hiệu quả
Các bộ, ngành hiện vẫn coi “quản lý” là sứ mệnh chính: đặt ra quy trình, giám sát, cấp phép, kiểm tra. Trong khi đó, thế giới đã chuyển sang mô hình “tối ưu hóa hiệu quả” – tức là đo lường kết quả cuối cùng và điều chỉnh toàn bộ quy trình để phục vụ mục tiêu đó. Ở ta, việc “đo kết quả” rất yếu; hầu hết cơ quan vẫn báo cáo theo đầu việc (đã làm gì), chứ không phải theo kết quả (tác động là gì, ai được hưởng lợi, chi phí bao nhiêu).
Quy trình chồng chéo, cơ quan phân mảnh, không ai chịu trách nhiệm cuối cùng
Cấu trúc bộ máy nhà nước được xây dựng theo nguyên tắc chia cắt chức năng, dẫn đến tình trạng mỗi Bộ nắm một phần nhỏ của chuỗi giá trị chính sách, nhưng không Bộ nào chịu trách nhiệm trọn vẹn. Một dự án đầu tư, một chính sách đổi mới hay một chương trình xã hội phải qua hàng chục cửa, mỗi cửa có một cơ quan “liên quan”. Chính cơ chế “liên quan” này khiến không ai chịu trách nhiệm, và cũng không ai thực sự có quyền quyết định.
Cải cách bị mắc kẹt trong chính cơ chế mà nó muốn thay đổi
Khi một Bộ được giao nhiệm vụ “tinh gọn chính mình”, kết quả thường là điều chỉnh về danh nghĩa – sáp nhập, đổi tên, lập thêm ban mới. Hệ thống tự cải cách mình giống như một cơ thể bệnh tự kê thuốc: chỉ chữa triệu chứng, không dám chạm vào nguyên nhân. Nhiều năm nói về “tinh giản biên chế”, nhưng thực tế số lượng đầu mối tăng; nhiều năm nói “ứng dụng công nghệ số”, nhưng thủ tục lại chỉ chuyển từ giấy sang cổng điện tử – hiện đại hóa hình thức, không phải tinh giản nội dung.
Thiếu cơ chế đo lường, đánh giá và xử lý theo kết quả
Các Bộ hiện nay không có hệ thống đánh giá hiệu suất công việc dựa trên dữ liệu thực. Việc hoàn thành nhiệm vụ vẫn được đo bằng hồ sơ, không phải bằng tác động đến người dân và doanh nghiệp. Hệ quả là hiệu quả thấp nhưng không ai bị xem xét, năng lực cao nhưng cũng không ai được khen thưởng xứng đáng. Không có chỉ số hiệu quả, không thể có cải cách thật.
II. Vì sao các nỗ lực hiện nay vẫn chỉ là phần ngọn
Những năm gần đây, Chính phủ đã rất quyết tâm trong đổi mới, thúc đẩy chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, và cải cách thể chế. Tuy nhiên, các nỗ lực đó vẫn nằm trong khuôn khổ điều hành cũ – tức là từng Bộ tự triển khai, tự đánh giá, tự báo cáo. Điều này dẫn đến ba sai lệch căn bản:
Cải cách không được đo bằng hiệu quả hệ thống, mà bằng hoạt động đơn lẻ.
Một Bộ có thể tự cho rằng mình đổi mới, nhưng nếu đổi mới đó khiến quy trình chung phức tạp hơn, tổng thể quốc gia vẫn trì trệ.
Thiếu cơ quan trung lập có quyền “đo” và “chấn chỉnh”.
Không có ai đứng ra nói thẳng rằng “cơ chế này không hiệu quả”, “quy trình này chồng chéo”, hay “Bộ này đang cản trở tiến trình cải cách”.
Không ai chịu trách nhiệm về sự kém hiệu quả tổng thể.
Mỗi Bộ chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi của mình, nên tình trạng “mạnh ai nấy làm”, “đẩy bóng trách nhiệm” vẫn phổ biến.
Vì thế, mọi nỗ lực hiện nay – dù mang tinh thần đổi mới – vẫn chỉ là chỉnh sửa phần ngọn của một thân cây đã cằn, trong khi gốc rễ của sự trì trệ nằm ở cấu trúc và cơ chế điều phối giữa các Bộ, ngành. III. Cơ sở hình thành “Bộ Hiệu quả cao”
Cần một cơ quan chuyên trách, độc lập và có thẩm quyền điều phối hiệu quả quốc gia
Đó không phải là Bộ hành chính mới, mà là Bộ Hiệu quả cao – một cơ quan trung tâm, có nhiệm vụ đo lường, đánh giá, và tái cấu trúc toàn bộ hệ thống vận hành nhà nước theo nguyên tắc hiệu quả.
Bộ này không làm chính sách cụ thể, mà đánh giá tính hiệu quả của chính sách và cơ chế vận hành của từng Bộ.
Kết quả của Bộ Hiệu quả cao là đề xuất cắt giảm, sắp xếp, hoặc chuyển đổi mô hình hoạt động, có giá trị bắt buộc thi hành khi được Thủ tướng phê duyệt.
Cơ sở pháp lý và lý luận
Theo tinh thần Nhà nước kiến tạo, Chính phủ phải đóng vai trò “điều phối hiệu quả” chứ không chỉ “quản lý hành chính”.
Hiện chưa có cơ quan nào trong hệ thống đảm nhiệm vai trò “kiểm soát hiệu quả vận hành”, trong khi đây là chức năng cốt lõi của quản trị hiện đại.
Việc giao cho khu vực tư nhân – các chuyên gia quản trị, phân tích dữ liệu, tài chính công – tham gia điều hành Bộ này là hoàn toàn khả thi, vì họ có kỹ năng phân tích, tinh giản, và tái cấu trúc tổ chức mà khu vực công thường thiếu.
Cơ sở thực tiễn
Nhiều quốc gia đã lập cơ quan tương tự:
Singapore có “Ministry of Finance (Performance Division)” – đánh giá hiệu quả từng chính sách và chi tiêu công.
Anh có “Cabinet Office Efficiency and Reform Group” – rà soát toàn bộ hoạt động của các Bộ.
New Zealand có “State Services Commission” – giám sát hiệu quả công vụ.
Việt Nam có thể kế thừa tinh thần này nhưng đi xa hơn, bằng cách trao quyền độc lập thực sự cho cơ quan hiệu quả quốc gia.
IV. Ý nghĩa của Bộ Hiệu quả cao
Sự ra đời của cơ quan này sẽ:
Tạo ra cơ chế tự soi chiếu nội bộ trong Chính phủ.
Nhà nước không thể tự đánh giá mình nếu không có một tấm gương khách quan.
Cắt đứt vòng luẩn quẩn giữa cải cách và lợi ích.
Khi cải cách do chính người hưởng lợi từ cơ chế cũ thực hiện, kết quả không thể thật.
Thiết lập nền văn hóa hiệu suất trong toàn bộ khu vực công.
Mỗi Bộ, ngành, địa phương sẽ được đo lường và xếp hạng công khai.
Tạo động lực mới cho công chức – viên chức.
Khi hiệu quả trở thành thước đo, người làm thật sẽ được bảo vệ, kẻ trì trệ sẽ bị loại bỏ. Nếu đặt trong bối cảnh Việt Nam hiện nay – nơi bộ máy hành chính đã đạt giới hạn về năng lực vận hành, còn các nỗ lực cải cách nội bộ thường bị chặn bởi “lực cản trong chính hệ thống” – thì việc xuất hiện một thực thể ngoài hệ thống nhưng được Nhà nước ủy quyền trong giới hạn rõ ràng có thể chính là liều thuốc cần thiết để “tháo nút chai”.
Tuy nhiên, cần hiểu rõ: đây không thể là một “Bộ” theo nghĩa hành chính truyền thống, mà là một cơ chế đặc biệt – một “Cơ quan Hiệu quả quốc gia” (National Performance Authority), đặt dưới sự ủy quyền trực tiếp của Chính phủ và do Thủ tướng giám sát. Tôi sẽ trình bày rõ theo ba phần: tính hợp lý, nguyên tắc vận hành, và cách tránh rủi ro.
I. Tính hợp lý của mô hình này
Bộ máy hiện nay không thể tự cải cách mình.
Các Bộ vừa là “người bị rà soát” vừa là “người soạn luật rà soát”. Không có cơ chế nào buộc họ dám cắt chính quyền lợi của mình. Vì thế, mọi nghị quyết “tinh gọn, sắp xếp lại” chỉ dừng ở việc gộp – tách – đổi tên, không chạm tới cấu trúc quyền lực hay hiệu quả thực tế. Một cơ quan độc lập, không bị ràng buộc lợi ích, mới có thể chạm vào phần “xương”.
Tư nhân có năng lực quản trị và hiệu suất cao hơn khu vực công.
Tư nhân không phải vì “tư” mà hiệu quả; họ hiệu quả vì có cơ chế chịu trách nhiệm trực tiếp với kết quả. Một nhóm chuyên gia – nhà quản trị – nhà khoa học – có thể nhìn toàn bộ hệ thống công như một “doanh nghiệp khổng lồ”, phân tích năng suất, chi phí, trùng lặp, và giá trị đầu ra của từng bộ phận để đề xuất cắt – thay – tái cấu trúc.
Nhà nước cần đối tác đồng kiến tạo.
Trong thời kỳ mới, Nhà nước không thể tự làm tất cả. Vai trò “kiến tạo” nghĩa là Nhà nước thiết kế cuộc chơi, giám sát và điều phối, còn việc cải tiến bên trong có thể giao cho các thực thể trung lập – được tuyển chọn và quản trị theo cơ chế hợp đồng kết quả (performance contract).
II. Nguyên tắc vận hành của “Bộ Hiệu quả cao”
1. Tư cách pháp lý và vị trí
Không phải là Bộ hành chính, mà là Cơ quan Đặc biệt về Hiệu quả quốc gia, được thành lập theo Nghị quyết của Quốc hội hoặc Quyết định của Chính phủ.
Đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Thủ tướng và Ủy ban Cải cách Nhà nước, có quyền độc lập trong phân tích, đánh giá, đề xuất tái cấu trúc bộ máy.
Người đứng đầu có thể là Tổng ủy viên Hiệu quả quốc gia – được tuyển chọn công khai từ khu vực tư nhân, chuyên gia quản trị, có nhiệm kỳ 5 năm.
2. Quyền hạn và phạm vi
Đánh giá định kỳ toàn bộ hiệu suất vận hành của các Bộ, ngành, địa phương theo các tiêu chí đầu ra: chi phí – thời gian – tác động.
Đề xuất và bắt buộc Bộ liên quan thực hiện khuyến nghị (với thời hạn rõ ràng).
Được quyền yêu cầu loại bỏ hoặc sắp xếp lại các đầu mối, quy trình, ban bệ, chức danh không còn cần thiết; Thủ tướng ra quyết định thực hiện.
Tham mưu trực tiếp cho Chính phủ về việc gộp, tách, xoá bỏ hoặc chuyển đổi chức năng của Bộ ngành.
Có quyền công bố “Bảng xếp hạng hiệu quả quốc gia” của các Bộ hàng năm (giống mô hình “public dashboard” của Singapore hay “performance index” của New Zealand).
3. Cách vận hành – như một “phòng điều khiển hiệu suất”
Mọi dữ liệu về nhân sự, ngân sách, thủ tục, thời gian xử lý được chuẩn hóa và đưa về một hệ thống phân tích trung tâm.
Sử dụng phương pháp quản trị Lean & Agile: đo hiệu suất, tìm nút thắt, đề xuất cải tiến nhỏ nhưng tác động lớn.
Kết hợp chuyên gia nhà nước (am hiểu quy trình) và tư nhân (am hiểu năng suất, công nghệ, dữ liệu).
Báo cáo kết quả trực tiếp lên Chính phủ và công khai trước Quốc hội.
III. Rủi ro và điều kiện tiên quyết
Rủi ro chính trị – quyền lực chồng chéo.
Bộ ngành có thể phản kháng hoặc “chặn dữ liệu”. Vì vậy, cần sự ủy quyền tuyệt đối từ Thủ tướng, và cơ chế pháp lý rõ: “mọi cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin, tài liệu theo yêu cầu của Cơ quan Hiệu quả quốc gia”.
Rủi ro tư nhân hóa quyền lực công.
Nếu không có giám sát, cơ quan này có thể bị chi phối bởi nhóm lợi ích. Cần Hội đồng Giám sát Độc lập gồm 3 thành phần: đại diện Chính phủ, Quốc hội và khu vực học thuật/xã hội dân sự. Mọi đề xuất phải công khai, có phản biện xã hội.
Rủi ro xung đột văn hóa công – tư.
Nhiều cán bộ sẽ xem đây là “xâm lấn”. Cách xử lý là: không dùng ngôn ngữ trừng phạt, mà là tái tạo hệ thống cùng nhau – tư nhân không “đánh giá người”, mà “đánh giá hiệu quả hệ thống”.
Điều kiện tiên quyết:
Có luật về hiệu quả công vụ, quy định rõ quyền đo lường và trách nhiệm cải tiến.
Dữ liệu hành chính phải được số hóa, chuẩn hóa.
Có cơ chế khuyến khích người trong bộ máy hợp tác (thưởng bằng cơ hội, lộ trình, và ghi nhận danh dự).
IV. Tác động kỳ vọng
Trong 2 năm, loại bỏ được 40–50% quy trình không cần thiết, 25–40% vị trí hành chính chồng chéo.
Trong 4 năm, chuyển được một phần năng lực công sang khu vực xã hội hoá (dịch vụ công hiệu quả hơn, chi phí giảm).
Hình thành văn hóa hiệu suất: mọi cơ quan công đều ý thức rằng mình đang được đo – và phải có lý do tồn tại. Một “Bộ Hiệu quả cao” không phải là một cơ quan hành chính mới, mà là một tấm gương soi và một lưỡi dao mổ tinh tế. Nó không thay thế Chính phủ, mà làm cho Chính phủ trở nên tinh gọn, thông minh và minh bạch hơn.
Nếu thực hiện đúng, nó sẽ là bước ngoặt từ “Nhà nước quản lý” sang “Nhà nước điều phối hiệu quả” – một mô hình mà nhiều quốc gia phát triển đã thử ở quy mô nhỏ, nhưng Việt Nam có thể làm ở quy mô toàn hệ thống, nếu có quyết tâm chính trị đủ lớn.Nếu xem bộ máy hiện nay như một cơ thể đã phình ra sau nhiều năm tích tụ, thì “Bộ Hiệu quả cao” chính là một trung tâm phẫu thuật – tái cấu trúc chức năng, chứ không phải là một phòng hành chính mới. Và để thực hiện được nhiệm vụ ấy, nó phải được vận hành hoàn toàn theo logic của khu vực tư nhân, chứ không thể bị trói bởi các quy tắc công vụ cũ. I. Bản chất và triết lý của Bộ Hiệu quả cao
1. Tinh thần hình thành
Bộ này không tồn tại để quản lý, mà để điều chỉnh và tối ưu hóa hệ thống quản lý.
Không làm ra chính sách, không ban hành giấy phép, không xin – cho, không báo cáo hình thức. Nó chỉ có một sứ mệnh duy nhất: đo hiệu suất thực của bộ máy và kiến tạo cải tiến để nâng cao hiệu quả tổng thể.
Nói cách khác, nếu Chính phủ là người lái con tàu quốc gia, thì Bộ Hiệu quả cao là bộ phận định vị GPS và hệ thống tối ưu nhiên liệu – xác định tàu đang đi chậm ở đâu, chệch hướng ở đâu, tiêu hao vô ích ở đâu, và đề xuất cách sửa.
2. Cấu trúc quyền lực mới
Bộ này không nằm ngang hàng với các Bộ khác, mà nằm trên trục điều phối trực tiếp của Thủ tướng, có quyền thanh tra, đề xuất cách chức, cắt giảm quy trình hoặc nhân sự đối với bất kỳ đầu mối nào không đạt hiệu quả.
Nó có quyền phản biện và quyền đề xuất bắt buộc xem xét, tương tự cơ chế “veto” trong cải cách thể chế.
3. Tầm nhìn
Bộ Hiệu quả cao không chỉ tinh giản bộ máy, mà tái định nghĩa lại năng lực của Nhà nước hiện đại – chuyển từ mô hình “quản lý hành chính” sang mô hình “điều phối và tạo giá trị công”.
Nó đo không phải “ai làm đúng quy trình”, mà là “ai tạo ra giá trị thật cho xã hội”.
II. Thành phần và nhân sự
1. Nguyên tắc lựa chọn
Bộ Hiệu quả cao phải được cấu thành bởi người ngoài hệ thống công vụ, nghĩa là không chịu ảnh hưởng của văn hóa hành chính hiện tại.
70% nhân sự là chuyên gia tư nhân: các nhà quản trị doanh nghiệp, chuyên gia tối ưu hệ thống, chuyên gia dữ liệu, chuyên gia tài chính công, chuyên gia chuyển đổi tổ chức.
20% là nhà khoa học, nhà nghiên cứu độc lập có tư duy phân tích chính sách, đo lường hiệu quả, và công nghệ.
10% còn lại là đại diện của Nhà nước – đóng vai trò bảo đảm tính pháp lý và kết nối hệ thống hành chính.
Người lãnh đạo Bộ – gọi là Tổng Ủy viên Hiệu quả Quốc gia – phải là người có kinh nghiệm quản trị tập đoàn hoặc tổ chức quy mô lớn, có thành tích chứng minh bằng kết quả, được Hội đồng độc lập lựa chọn công khai, minh bạch.
2. Cơ chế nhân sự
Không có biên chế hành chính. Tất cả nhân sự làm việc theo hợp đồng hiệu suất (performance-based contract), trả lương cao nhưng gắn chặt với chỉ số đầu ra.
Mỗi nhóm làm việc theo chu kỳ nhiệm vụ 12–18 tháng: tập trung vào một Bộ hoặc một lĩnh vực, rà soát toàn diện và đưa ra đề xuất tinh gọn.
Cán bộ không hiệu quả sẽ bị thay thế nhanh chóng.
Có cơ chế “luân chuyển mở” – chuyên gia giỏi có thể được mời từ doanh nghiệp, viện nghiên cứu, quốc tế.
III. Quyền hạn và công cụ
Quyền khảo sát và truy cập dữ liệu:
Bộ Hiệu quả cao có quyền yêu cầu mọi Bộ, ngành, địa phương cung cấp dữ liệu liên quan đến nhân sự, tài chính, quy trình, thời gian xử lý hồ sơ, kết quả đầu ra.
Các đơn vị có nghĩa vụ pháp lý cung cấp thông tin, không được trì hoãn hoặc làm sai lệch dữ liệu.
Quyền kiến nghị bắt buộc:
Mọi đề xuất cải tiến, cắt giảm hoặc thay đổi tổ chức của Bộ Hiệu quả cao phải được Thủ tướng xem xét và phản hồi trong vòng 30 ngày.
Nếu không có phản hồi trong thời hạn, đề xuất được tự động coi là có hiệu lực thí điểm.
Quyền xử lý nhanh gọn:
Được phép đề xuất loại bỏ các quy trình, ban bệ, tổ chuyên môn nếu chứng minh được rằng chúng không tạo ra giá trị công tương xứng.
Có thể kiến nghị luân chuyển, thay thế nhân sự lãnh đạo nếu không đạt hiệu suất công vụ.
Công cụ điều hành hiện đại:
Vận hành bằng hệ thống dữ liệu hiệu suất quốc gia (National Performance Dashboard).
Sử dụng trí tuệ nhân tạo để theo dõi thời gian xử lý, hiệu quả chi tiêu, sự chồng chéo giữa các đơn vị.
Mỗi năm công bố “Bản đồ hiệu quả quốc gia” – xếp hạng các Bộ, ngành, địa phương theo chỉ số hiệu suất.
IV. Văn hóa vận hành
Không hành chính – Không thủ tục – Không tầng nấc
Cấu trúc Bộ này chỉ gồm ba tầng: Lãnh đạo – Nhóm phân tích – Nhóm cải tiến.
Mỗi nhóm chịu trách nhiệm về một lĩnh vực cụ thể (ví dụ: giáo dục, hạ tầng, nông nghiệp, khoa học).
Không có văn thư, phòng ban, cục vụ – mọi giao tiếp qua nền tảng điện tử, mọi báo cáo đều công khai dữ liệu thực.
Tư duy dự án – hành động nhanh – cải tiến liên tục
Mọi công việc được triển khai như dự án khởi nghiệp: có mục tiêu, có thời hạn, có thước đo cụ thể.
Khi phát hiện vấn đề, nhóm có thể ra quyết định khuyến nghị ngay, không chờ “xin ý kiến”.
Tập trung vào giá trị công và tác động xã hội
Mọi đánh giá đều dựa trên một tiêu chí duy nhất: điều này tạo thêm giá trị cho người dân, doanh nghiệp hay không?
Nếu câu trả lời là “không”, quy trình đó sẽ bị loại bỏ hoặc tái cấu trúc.
V. Lợi ích hệ thống
Cắt đứt vòng luẩn quẩn giữa “quản lý nhiều – hiệu quả thấp”
Khi có một cơ quan độc lập chỉ chuyên đánh giá hiệu suất, mọi Bộ buộc phải nhìn lại mình, không thể trốn trong báo cáo tốt đẹp.
Tạo động lực cạnh tranh lành mạnh trong khu vực công
Khi hiệu quả được công bố công khai, Bộ nào, địa phương nào làm kém sẽ phải tự điều chỉnh.
Tiết kiệm nguồn lực khổng lồ
Chỉ cần cắt 10% quy trình và 10% đầu mối không cần thiết, ngân sách có thể tiết kiệm hàng chục nghìn tỷ đồng mỗi năm – chưa kể thời gian xã hội và năng suất lao động tăng lên.
Tái tạo niềm tin của người dân vào bộ máy nhà nước
Người dân sẽ nhìn thấy rằng, Nhà nước đang thật sự đo hiệu quả, chứ không chỉ nói về tinh thần cải cách.Ý tưởng thành lập Bộ Hiệu quả cao (High-Performance Ministry) không phải để thêm một tầng nấc hành chính mới, mà để tạo ra một “lực đẩy tạm thời” giúp tái cấu trúc toàn bộ bộ máy công quyền, khơi thông những điểm tắc nghẽn mà hệ thống hiện hữu không thể tự sửa. Tư tưởng này hoàn toàn phù hợp với chủ trương tinh gọn, đổi mới quản trị quốc gia, chuyển từ Nhà nước quản lý sang Nhà nước kiến tạo và phục vụ, nếu được đặt đúng vị trí — như một công cụ đặc biệt, có thời hạn, có trọng tâm, có thẩm quyền và có trách nhiệm rõ ràng. 1. Cơ sở thực tiễn: Vì sao cần Bộ Hiệu quả cao
Hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã nỗ lực cải cách hành chính, tinh giản biên chế, chuyển đổi số, cải thiện môi trường đầu tư, song hệ thống vẫn vận hành nặng nề, cồng kềnh, thiếu hiệu quả. Nhiều bộ, ngành vẫn tồn tại:
Cơ chế chồng chéo, nhiệm vụ trùng lặp, thiếu phân quyền thực chất.
Quy trình phức tạp, tầng nấc trung gian nhiều, quyết định chậm và né tránh trách nhiệm.
Văn hóa làm việc theo chỉ đạo, hồ sơ, thay vì kết quả và tác động thực tế.
Cách đánh giá cán bộ theo “an toàn nội bộ” chứ không theo “hiệu quả hành động”.
Mặc dù có Nghị quyết 57 về đổi mới sáng tạo và nhiều chính sách đi kèm, tinh thần đổi mới chưa thấm vào “tế bào vận hành” của bộ máy. Cải cách vẫn mang tính hình thức, thêm một vài nội dung mới, nhưng không thay đổi cơ chế tạo ra kết quả. Chính phủ và các Bộ ngành đang mắc kẹt trong “bẫy tự quản lý mình” — tức là không thể tự tái cấu trúc vì mỗi bộ đều vừa là người được đánh giá vừa là người đánh giá chính mình.
Bộ Hiệu quả cao vì thế là một thiết kế mang tính can thiệp thông minh, nhằm phá thế bế tắc, đưa yếu tố thị trường, khoa học quản trị và tinh thần doanh nghiệp vào trong cấu trúc Nhà nước.
2. Cơ sở pháp lý và chính trị
Việc thành lập một cơ quan đặc biệt có tính tạm thời hoàn toàn có thể dựa vào:
Điều 8 Hiến pháp 2013, khẳng định: Nhà nước tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” và chịu sự giám sát của Nhân dân. Việc thành lập cơ quan đặc biệt để tăng hiệu quả quản trị là hành động phục vụ lợi ích nhân dân, phù hợp với nguyên tắc này.
Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) cho phép Chính phủ thành lập các ban chỉ đạo, cơ quan đặc biệt để giải quyết các nhiệm vụ cấp bách, có thời hạn cụ thể.
Chủ trương tinh gọn bộ máy trong các Nghị quyết Trung ương 6 và 18 (khóa XII) tạo hành lang pháp lý cho việc thử nghiệm mô hình quản trị mới mà không làm tăng biên chế lâu dài.
Tinh thần đổi mới sáng tạo theo Nghị quyết 57 đặt yêu cầu “tạo thể chế mở, chấp nhận thử nghiệm” — đây chính là cơ sở chính trị cho phép ra đời một mô hình “Bộ tạm thời” nhằm tái cấu trúc hiệu quả toàn hệ thống. 3. Cơ sở khoa học và quản trị
Từ góc nhìn khoa học tổ chức, không có hệ thống nào có thể tự cải tổ mình nếu không có tác nhân ngoài. Tổ chức nhà nước cũng như doanh nghiệp, khi đạt đến một mức độ ổn định cao, sẽ sinh ra quán tính hành chính, tự bảo vệ cấu trúc hiện có.
Để phá vỡ quán tính đó, cần có một đơn vị độc lập, tinh gọn, trung lập quyền lợi, được giao quyền rà soát, đo lường và tái thiết lập quy trình theo chuẩn hiệu quả.
Các nghiên cứu về governance innovation (đổi mới quản trị nhà nước) cho thấy mô hình “tổ công tác đặc biệt” hoặc “agency of reform” đã từng được áp dụng hiệu quả tại nhiều quốc gia:
Singapore thành lập Public Service Division (PSD) trực thuộc Thủ tướng, tập hợp các chuyên gia tư nhân để cải tiến bộ máy, có quyền can thiệp sâu nhưng giới hạn thời gian.
Hàn Quốc từng có Presidential Council on National Competitiveness (2008–2013), hoạt động như một “Bộ hiệu quả” rà soát toàn bộ quy trình chính phủ, giúp nâng xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia.
OECD khuyến nghị mô hình Reform Delivery Unit như một “động cơ tăng tốc” cho các chính phủ chậm thay đổi. THƯ KIẾN NGHỊ CHIẾN LƯỢC
Gửi: Ban Chính sách Chiến lược Trung ương Đảng
Kính gửi các đồng chí lãnh đạo,
Tôi xin trân trọng gửi đến Ban Chính sách Chiến lược Trung ương một kiến nghị mang tính thực tiễn và cải cách sâu sắc, nhằm góp phần hiện thực hóa tinh thần đổi mới toàn diện theo Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong quản trị quốc gia.
1. Bối cảnh và vấn đề gốc
Sau gần một năm triển khai Nghị quyết 57, hệ thống các Bộ, ngành, địa phương đã có nhiều nỗ lực đáng ghi nhận trong việc ban hành văn bản hướng dẫn, chương trình hành động, đề án đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, kết quả thực chất vẫn chưa tạo được chuyển biến rõ ràng trong năng lực vận hành của bộ máy nhà nước và sức sống sáng tạo trong đời sống xã hội.
Nguyên nhân cốt lõi không nằm ở thiếu chủ trương, mà ở khoảng cách giữa tư duy chính trị và tư duy hành chính – giữa ngôn ngữ lãnh đạo và ngôn ngữ thực thi.
Phần lớn các Bộ ngành vẫn vận hành theo lối tư duy “quản lý – kiểm soát – an toàn nội bộ”, thay vì “đồng hành – hỗ trợ – kiến tạo hiệu quả”. Cơ chế đánh giá vẫn nặng về hồ sơ, chưa dựa trên kết quả và giá trị xã hội. Các chính sách đổi mới chỉ được cấy thêm vào trong khung cũ, nên tinh thần Nghị quyết mới chỉ dừng ở “phần ngọn”.
Hệ thống đang đối mặt với nghịch lý tự quản lý chính mình: mỗi Bộ vừa là đối tượng cần cải cách, vừa là cơ quan được giao nhiệm vụ cải cách, dẫn đến tình trạng “không ai đủ thẩm quyền đánh giá hiệu quả của ai”. Đây chính là điểm nghẽn lớn nhất trong tiến trình đổi mới bộ máy nhà nước hiện nay.
2. Kiến nghị thành lập cơ quan đặc biệt: “Bộ Hiệu quả cao”
Để tháo gỡ tận gốc điểm nghẽn này, tôi kiến nghị Ban Chính sách Chiến lược Trung ương xem xét, tham mưu Bộ Chính trị và Ban Bí thư chỉ đạo Chính phủ nghiên cứu, thành lập một cơ quan đặc biệt mang tên “Bộ Hiệu quả cao” – hoạt động trong thời hạn 5 năm, với nhiệm vụ tái cấu trúc và nâng hiệu suất toàn bộ bộ máy hành chính quốc gia.
Cơ quan này không phải là một bộ mới theo nghĩa truyền thống, mà là “bộ tạm thời” – công cụ cải cách chuyên biệt, tương tự mô hình “Reform Delivery Unit” ở các nước có nền hành chính tiên tiến.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ chủ đạo
Rà soát và đo lường hiệu quả thực tế của từng Bộ, ngành, cơ quan nhà nước theo các chỉ số cụ thể về tốc độ xử lý, chất lượng dịch vụ công, và tác động xã hội.
Đề xuất phương án tinh gọn, hợp nhất hoặc chuyển giao chức năng giữa các Bộ ngành để loại bỏ chồng chéo và lãng phí.
Thiết kế lại quy trình vận hành và cơ chế đánh giá cán bộ dựa trên kết quả đầu ra và giá trị công dân, thay cho hồ sơ và thủ tục.
Thực hiện cơ chế “sandbox thể chế”, thử nghiệm những mô hình quản trị công mới, dựa trên dữ liệu, công nghệ và tính linh hoạt.
Báo cáo trực tiếp lên Chính phủ và Ban Bí thư, có quyền kiến nghị tạm đình chỉ những quy trình, văn bản hoặc bộ phận gây cản trở hiệu quả chung.
4. Thành phần và phương thức hoạt động
80% nhân sự đến từ khu vực tư nhân, học giả, doanh nghiệp và chuyên gia quản trị, có năng lực tổ chức, đo lường và cải tiến.
20% nhân sự biệt phái từ các Bộ, ngành để bảo đảm phối hợp hành chính và kết nối dữ liệu.
Làm việc theo cơ chế đặc biệt: không bị ràng buộc bởi hệ thống báo cáo nhiều tầng, được trao quyền hành động nhanh, minh bạch và có cơ chế giám sát độc lập.
Tự giải thể sau 5 năm khi hoàn thành nhiệm vụ, không phát sinh thêm biên chế hay ngân sách lâu dài, bảo đảm phù hợp với chủ trương tinh giản bộ máy và hiệu quả chi tiêu công.
5. Cơ sở pháp lý và khoa học
Điều 8 Hiến pháp 2013: Nhà nước tổ chức và hoạt động vì Nhân dân, dưới sự giám sát của Nhân dân.
Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) cho phép thành lập cơ quan đặc biệt có nhiệm vụ cụ thể, có thời hạn, nhằm thực hiện các mục tiêu cấp bách.
Nghị quyết Trung ương 6 và 18 (khóa XII) về đổi mới, tinh gọn tổ chức bộ máy.
Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị xác định đổi mới sáng tạo phải trở thành động lực của phát triển quốc gia, gắn với cơ chế mở và thử nghiệm thể chế.
Trên cơ sở đó, Bộ Hiệu quả cao không chỉ hợp pháp, mà còn là bước triển khai đúng tinh thần “đổi mới thể chế để nuôi dưỡng đổi mới sáng tạo” mà Nghị quyết 57 đã khởi xướng.
6. Ý nghĩa chiến lược
Nếu được thành lập, Bộ Hiệu quả cao sẽ:
Tạo ra bước ngoặt về tư duy quản trị quốc gia – từ quản lý theo quy trình sang quản lý theo giá trị.
Trở thành công cụ tăng tốc cho cải cách, giúp Chính phủ làm việc nhanh, rõ, và có đo lường thực tế.
Góp phần khôi phục niềm tin xã hội vào hiệu quả của bộ máy công quyền, tạo nền tảng vững chắc cho các chương trình chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và phát triển vùng.
Đây là giải pháp tạm thời nhưng có sức tác động lâu dài, đưa tinh thần cải cách đi vào thực tiễn, và khép lại vòng luẩn quẩn “chủ trương tốt – triển khai chậm – hiệu quả thấp”.
7. Kết luận
Một cơ quan “Bộ Hiệu quả cao” không phải là một tổ chức mới, mà là một phương thức hành động mới, giúp Chính phủ tự thanh lọc, tự nâng hiệu suất, đồng thời thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng trong việc xây dựng một Nhà nước năng động, kiến tạo và phục vụ thực chất.
Kính mong Ban Chính sách Chiến lược Trung ương xem xét, báo cáo và tham mưu để Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo Chính phủ nghiên cứu, triển khai mô hình này như một dự án cải cách trọng điểm cấp quốc gia giai đoạn 2026–2030.
Xin trân trọng cảm ơn và kính chúc các đồng chí mạnh khỏe, sáng suốt, kiên định trên con đường dẫn dắt đất nước đổi mới sâu sắc và thực chất.
#
Người gửi: TRƯƠNG NAM THUẬN Thời gian gửi: 06/11/2025
Đề nghị Tỉnh Lâm đồng cần tổ chức các lớp tuận huấn, hướng dẫn cho cán bộ phụ trách về chuyển đổi số tại địa phương
#Cơ chế phát triển hạ tầng số và bảo đảm an toàn thông tin mạng
Người gửi: Đỗ Thanh Hùng Thời gian gửi: 06/11/2025
Sáng kiến đề xuất triển khai hệ thống quản lý kho vận thông minh ứng dụng công nghệ RFID nhằm tự động hóa quy trình kiểm kê, xuất nhập hàng hóa và truy xuất nguồn gốc sản phẩm trong toàn bộ chuỗi cung ứng của Casumina.
Giải pháp giúp giảm hơn 50% thời gian kiểm kê, tăng độ chính xác lên trên 98%, giảm sai sót nhập liệu dưới 1%, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý và minh bạch dữ liệu kho vận.
Khác với phương pháp dùng mã vạch và ghi chép thủ công, RFID cho phép nhận diện đồng thời nhiều sản phẩm qua sóng vô tuyến, tự động ghi nhận khi hàng hóa di chuyển qua các điểm kiểm soát, tích hợp trực tiếp với hệ thống ERP hiện có.
Việc ứng dụng công nghệ này là bước đi chiến lược trong chuyển đổi số logistics nội bộ, phù hợp định hướng phát triển doanh nghiệp số theo Nghị quyết 57-NQ/TW, góp phần hình thành mô hình “Kho thông minh Casumina”, hiện đại, chính xác và bền vững.
#
Người gửi: Nguyễn Thị Thùy Duyên Thời gian gửi: 06/11/2025
Sáng kiến “Hệ thống Văn phòng không giấy” hướng tới xây dựng một môi trường làm việc số toàn diện, giúp Casumina chuyển đổi hoàn toàn từ quy trình giấy tờ sang nền tảng số hóa, tối ưu hiệu suất làm việc, tiết kiệm chi phí và bảo mật thông tin.
Hệ thống được thiết kế theo mô hình “All-in-One”, tích hợp các chức năng: trình ký – phê duyệt điện tử, quản lý văn bản, hợp đồng, lưu trữ hồ sơ, công việc, lịch họp và báo cáo điều hành trên cùng một nền tảng. Ứng dụng các công nghệ tiên tiến như AI, OCR, phân quyền tự động và chữ ký số, giúp tự động hóa quy trình, giảm 80% chi phí in ấn, rút ngắn 70% thời gian xử lý hồ sơ, đồng thời giảm 90% diện tích lưu trữ.
Giải pháp phù hợp định hướng chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo theo Nghị quyết 57-NQ/TW, góp phần hình thành “Doanh nghiệp số Casumina”, hiện đại – minh bạch – bền vững, tạo nền tảng cho mô hình quản trị thông minh và văn hóa làm việc không giấy tờ.
#
Người gửi: Nguyễn Thị Thùy Duyên Thời gian gửi: 06/11/2025
Sáng kiến đề xuất ứng dụng công nghệ Flycam tích hợp cảm biến RTK-SLAM và trí tuệ nhân tạo (AI) trong việc quản lý và kiểm kê hàng tồn kho tại Casumina. Giải pháp giúp tự động hóa quy trình kiểm kê, nhận diện và phân tích hình ảnh, barcode, QR code từ trên cao, cho phép thu thập dữ liệu nhanh chóng và chính xác.
Khác với phương pháp kiểm kê thủ công truyền thống, Flycam có thể hoạt động trong môi trường kho phức tạp (indoor/outdoor), giảm 50% thời gian kiểm kê, đạt độ chính xác 98% và tiết kiệm 35% chi phí nhân công.
Sản phẩm đầu ra gồm hệ thống Flycam tích hợp phần mềm AI, dashboard quản lý tồn kho thời gian thực và quy trình vận hành – bảo trì tiêu chuẩn. Giải pháp không chỉ nâng cao hiệu quả quản lý, giảm rủi ro và sai sót mà còn phù hợp định hướng chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo theo Nghị quyết 57-NQ/TW, góp phần xây dựng mô hình “Kho thông minh Casumina”, hiện đại, hiệu quả và bền vững.
#
Người gửi: Nguyễn Thị Thùy Duyên Thời gian gửi: 06/11/2025
Sáng kiến hướng đến việc ứng dụng công nghệ thực tế ảo (VR) trong hành trình trải nghiệm khách hàng, giúp Casumina tiên phong mang đến phương thức giới thiệu sản phẩm lốp xe hiện đại, sống động và tương tác trực tiếp.
Thông qua Virtual Factory Tour, khách hàng có thể “bước vào” nhà máy Casumina để khám phá chi tiết quy trình sản xuất, kiểm định chất lượng và công nghệ chế tạo lốp. Tiếp đó, Virtual Showroom 3D cho phép người dùng tương tác với từng dòng sản phẩm, đặt lốp lên xe mô phỏng, xem thông số kỹ thuật, và thực hiện mua hàng trực tiếp ngay trong không gian ảo.
Giải pháp này không chỉ giúp minh bạch hóa chất lượng, mà còn tạo ra trải nghiệm cảm xúc và niềm tin thương hiệu – điều mà các phương thức quảng bá truyền thống chưa đạt được. Casumina trở thành doanh nghiệp lốp tiên phong ứng dụng công nghệ thực tế ảo tại Việt Nam, khẳng định vị thế “tiên phong đổi mới” và nâng tầm hình ảnh thương hiệu trong kỷ nguyên số.
Sáng kiến kỳ vọng mang lại tăng trưởng 15% tỷ lệ chuyển đổi khách hàng tiềm năng, mức độ hài lòng đạt 90%, và lan tỏa thương hiệu mạnh mẽ trên môi trường số. Dự án cũng góp phần trực tiếp thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW về chuyển đổi số quốc gia và phát triển doanh nghiệp công nghiệp sáng tạo, hướng đến mô hình doanh nghiệp số lấy trải nghiệm khách hàng làm trung tâm.
#
Người gửi: Nguyễn Thị Thùy Duyên Thời gian gửi: 06/11/2025
Sáng kiến hướng đến việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào hoạt động sản xuất, thương mại và quản trị nội bộ của Casumina thông qua việc phát triển Chatbot AI đa năng, đóng vai trò như “trợ lý ảo doanh nghiệp”.
Giải pháp cho phép Chatbot kết nối và đồng bộ dữ liệu với các hệ thống ERP, DMS, Website, Zalo OA và ứng dụng thương mại điện tử, giúp người dùng (khách hàng, nhân viên, kỹ thuật viên, đại lý…) có thể tra cứu thông tin, tạo đơn hàng, theo dõi sản xuất – kho vận, hoặc xử lý sự cố bằng ngôn ngữ tự nhiên.
Chatbot hoạt động 24/7, tự động tư vấn sản phẩm, hỗ trợ khách hàng, nhắc lịch bảo hành, ghi nhận phản hồi và phân tích hành vi người dùng. Trong sản xuất, Chatbot hỗ trợ tra cứu dây chuyền, vật tư, kế hoạch bảo trì, góp phần giảm sai sót và tăng tốc độ xử lý.
Về lợi ích, sáng kiến giúp tự động hóa 90% yêu cầu nội bộ và khách hàng, giảm 40–50% khối lượng công việc cho bộ phận CSKH và kỹ thuật, đồng thời nâng cao năng suất, tối ưu chi phí, và cải thiện trải nghiệm khách hàng.
Giải pháp phù hợp với Nghị quyết số 57-NQ/TW về chuyển đổi số quốc gia, góp phần xây dựng doanh nghiệp vận hành dựa trên dữ liệu (data-driven enterprise), hiện đại – linh hoạt – tự động.
#
Người gửi: Nguyễn Thị Thùy Duyên Thời gian gửi: 06/11/2025
Đề xuất xây dựng hệ thống truy nguyên nguồn gốc sản phẩm điện tử áp dụng cho toàn bộ sản phẩm Casumina, sử dụng QR code và RFID tích hợp với ERP, DMS, hệ thống bảo hành điện tử nhằm theo dõi toàn bộ vòng đời sản phẩm từ nguyên liệu đầu vào đến người tiêu dùng.
Giải pháp giúp minh bạch chuỗi cung ứng, chống hàng giả, nâng cao quản lý chất lượng và uy tín thương hiệu, đồng thời liên thông dữ liệu với cơ quan quản lý và đối tác quốc tế, đáp ứng tiêu chuẩn GS1, EPCIS.
Sáng kiến góp phần thực hiện chuyển đổi số trong công nghiệp chế biến, phù hợp với Mục tiêu số 6 của Nghị quyết 57-NQ/TW, hướng tới mô hình doanh nghiệp sản xuất thông minh và bền vững.
#
Người gửi: Nguyễn Thị Thùy Duyên Thời gian gửi: 06/11/2025
Đề xuất triển khai hệ thống chuyển đổi số toàn diện cho Casumina, tích hợp đồng bộ các chức năng quản trị – bán hàng – truyền thông trên mô hình 3 tầng kỹ thuật số (Website – Deepweb – Backend ERP).
Giải pháp giúp tăng hiệu quả quản lý, tối ưu quy trình vận hành, nâng cao trải nghiệm khách hàng, đồng thời chuẩn hóa nhận diện thương hiệu và kết nối dữ liệu giữa khách hàng – nhà phân phối – công ty.
Sáng kiến góp phần cụ thể hóa Nghị quyết 57-NQ/TW về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, hướng tới mục tiêu doanh nghiệp số Casumina hiện đại, linh hoạt và bền vững.
#
Người gửi: Nguyễn Thị Thùy Duyên Thời gian gửi: 06/11/2025
Đề xuất triển khai hệ thống giám sát kho vận bằng cảm biến thông minh IoT theo tiêu chuẩn ISO, nhằm tự động ghi nhận và cảnh báo các yếu tố môi trường (nhiệt độ, độ ẩm, rung chấn, ánh sáng, khí gas...) trong thời gian thực.
Giải pháp giúp nâng cao hiệu quả quản lý, giảm rủi ro hư hỏng hàng hóa, tiết kiệm năng lượng và đáp ứng tiêu chuẩn ISO 9001, ISO 14001, đồng thời tích hợp dữ liệu với ERP/WMS, hướng tới mô hình “Kho thông minh – Smart Warehouse Casumina”.
Sáng kiến góp phần thúc đẩy chuyển đổi số và tự động hóa quy trình kho vận, phù hợp mục tiêu phát triển bền vững và công nghiệp 4.0.
#
Người gửi: Nguyễn Thị Thùy Duyên Thời gian gửi: 06/11/2025
Sáng kiến “Tự động hóa quản lý kho lốp Casumina bằng ứng dụng IoT – Mobile” nhằm chuyển đổi mô hình quản lý kho truyền thống sang hệ thống số hóa, tự động và thời gian thực. Giải pháp ứng dụng thiết bị IoT và Mobile App trong ghi nhận nhập – xuất – tồn kho, kết nối trực tiếp với ERP, giúp giảm 80% thao tác thủ công, hạn chế sai lệch số liệu và tăng hiệu quả vận hành. Hệ thống tạo dữ liệu kho tập trung, hỗ trợ phân tích – dự báo, góp phần xây dựng mô hình “Kho thông minh Casumina”, phù hợp định hướng chuyển đổi số doanh nghiệp sản xuất theo Nghị quyết 57-NQ/TW, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng suất lao động.
#
Người gửi: Nguyễn Thị Thùy Duyên Thời gian gửi: 06/11/2025