- Mục đích: Số hóa 100% biểu mẫu, phiếu đánh giá, báo cáo tổng hợp theo Quy định 124-QĐ/TW và Hướng dẫn 21-HD/BTCTW; Tạo lập cơ sở dữ liệu thống nhất, kết nối từ chi bộ tới tỉnh, phục vụ tổng hợp tự động theo tháng, quý, năm.
- Lý do: Hiện nay việc đánh giá đảng viên vẫn sử dụng nhiều biểu mẫu giấy, dẫn tới sai sót, tốn thời gian và khó lưu trữ lâu dài; Chưa có hệ thống dữ liệu tập trung, dẫn đến việc thống kê, báo cáo thủ công, thiếu tính liên thông giữa các cấp; Việc bổ sung phân hệ này sẽ giúp chuẩn hóa quy trình, nâng cao tính chính xác, khách quan trong đánh giá đảng viên hằng năm.
#Thủ tục hành chính và quy trình triển khai KH, CN, ĐMST và CĐSQG
Người gửi: Nguyễn Thìn Bằng Thời gian gửi: 14/11/2025
Thực trạng bất cập trong quá trình triển khai Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị và Quy chế 03 của Văn phòng Trung ương
Mặc dù Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đã khẳng định vai trò trọng tâm của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong phát triển quốc gia, và Quy chế số 03-QC/VPTW đã quy định rõ quy trình tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị, sáng kiến của các tổ chức, cá nhân, song thực tế quá trình triển khai hiện nay đang bộc lộ những bất cập có tính hệ thống. Ba nhóm tình trạng điển hình dưới đây cho thấy sự lệch pha giữa tinh thần của Nghị quyết và cách thức vận hành của bộ máy thực thi.
1. Tình trạng thứ nhất: Chậm tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị — vi phạm thời hạn quy chế
Trong nhiều trường hợp, các kiến nghị và đề xuất đã được người dân hoặc các tổ chức gửi đầy đủ hồ sơ, nêu rõ nội dung, căn cứ và đề xuất cụ thể, nhưng vẫn không được tiếp nhận xử lý đúng thời hạn theo Quy chế 03. Có trường hợp đã quá gần một tháng kể từ ngày gửi, nhưng Bộ hoặc cơ quan chủ quản vẫn chưa có phản hồi hoặc thông báo trạng thái xử lý trên hệ thống.
Điều này thể hiện vi phạm trực tiếp quy định về thời hạn xử lý phản ánh, kiến nghị theo Quy chế 03, đồng thời phản ánh tình trạng thiếu cơ chế giám sát, nhắc nhở và kiểm soát tiến độ nội bộ giữa Văn phòng Trung ương, các Bộ, ngành và đơn vị thực hiện.
Việc chậm trễ này không chỉ làm mất hiệu lực thời gian của sáng kiến, mà còn gây tâm lý nản lòng cho người phản ánh, đi ngược lại tinh thần “khuyến khích đổi mới sáng tạo từ cơ sở” mà Nghị quyết 57 đề ra. Cụ thể ví dụ mã phản ánh kiến nghị 2025_SKGP_0917191752245 - Từ ngày 17 tháng 09 đến ngày hôm nay là 13 tháng 11 vẫn chưa được tiếp nhận.
2. Tình trạng thứ hai: Phản hồi chung chung, không rõ yêu cầu và nội dung cần làm rõ
Một số phản hồi từ cơ quan được giao xử lý có nội dung mơ hồ, không cụ thể, chỉ nêu chung rằng “đề nghị bổ sung thông tin”, nhưng không nêu rõ cần bổ sung phần nào, ở mức độ nào, theo tiêu chí gì.
Hậu quả là người phản ánh không biết:
Cần làm rõ nội dung chuyên môn nào (kỹ thuật, pháp lý hay chính sách);
Phần nào là trách nhiệm nghiên cứu, làm rõ của Bộ, phần nào là nghĩa vụ bổ sung của người kiến nghị;
Bộ cần dữ liệu, lập luận hay tài liệu minh chứng gì để hoàn thiện hồ sơ.
Tình trạng này cho thấy thiếu quy chuẩn về nội dung phản hồi và phân định trách nhiệm hai chiều. Nhiều trường hợp, cơ quan phản hồi chuyển ngược gánh nặng nghiên cứu và làm rõ về cho người kiến nghị, dù đó là phần việc thuộc chuyên môn quản lý nhà nước của Bộ.
Kết quả là người phản ánh không thể đáp ứng đúng yêu cầu, trong khi Bộ lại cho rằng hồ sơ chưa đủ điều kiện xem xét, tạo ra một vòng lặp bế tắc trong thực thi quy chế. Ví dụ cụ thể là mã phản ánh số 2025_SKGP_0926220044351 - Ngày gửi là 26 tháng 09 cho đến ngày 12 tháng 11 mới tiếp nhận và yêu cầu bổ sung thông tin với ghi chú : Đơn vị đã tiếp nhận những ý kiến góp ý ! Vậy thì tiếp nhận rồi sao lại còn yêu cầu bổ sung thông tin, yêu cầu bổ sung thông tin gì, ở đâu, cụ thể ra sao, rất chung chưng, mơ hồ !!!!
3. Tình trạng thứ ba: Phân tán đầu mối xử lý, thiếu cơ quan chủ trì tổng hợp
Nhiều nội dung phản ánh, kiến nghị sau khi được tiếp nhận đã không được cơ quan chủ quản trực tiếp xử lý, mà phân phối xuống các sở, ngành hoặc đơn vị chuyên môn cấp dưới.
Thay vì Bộ hoặc cơ quan đầu mối chủ trì, tổng hợp và chịu trách nhiệm chính trong việc phản hồi, hệ thống lại chuyển hồ sơ cho nhiều đầu mối khác nhau cùng tham gia xử lý. Mỗi đơn vị phản hồi theo cách hiểu riêng, với thời gian, góc nhìn và mức độ chi tiết khác nhau.
Cơ quan chủ trì chỉ dừng lại ở việc báo cáo tình trạng xử lý lên hệ thống, mà không trực tiếp liên lạc hoặc hỗ trợ người phản ánh trong quá trình giải quyết. Điều này dẫn đến:
Nội dung kiến nghị bị phân mảnh, mất mạch logic ban đầu;
Không có đầu mối tổng hợp cuối cùng để trả lời thống nhất;
Thời gian xử lý bị kéo dài, trách nhiệm tập thể bị pha loãng;
Không có sự đồng hành giữa cơ quan quản lý và người đề xuất sáng kiến. Ví dụ mã phản ánh số 2025_PAKN_1029152420779- xử lý rất nhanh. Nhưng văn bản trả lời lại chuyển tất cả đầu mối các sở nghành để làm việc với công dân kiến nghị, tổng hợp để Sở KHCN báo cáo với Ban chỉ đạo. Trong khi tinh thần nghị quyết 57 rất rõ ràng về cách thức xử lý vấn đề, sở làm đầu mối, chủ trì, làm việc với các sở nghành khác, để tổng hợp, trả lời nội dung kiến nghị của công dân thì lại đẩy hết các đầu mối để công dân tự làm việc !
4. Cơ sở pháp lý và khoa học của các bất cập trên
Về pháp lý, Quy chế 03 của Văn phòng Trung ương đã quy định rõ: các cơ quan được giao xử lý phản ánh, kiến nghị phải tiếp nhận, phân loại, phản hồi trong thời hạn cụ thể, đồng thời báo cáo kết quả và trách nhiệm xử lý lên hệ thống điều phối trung ương. Tuy nhiên, chưa có cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm quy chế một cách rõ ràng, nên quy định trở nên hình thức.
Về tổ chức, mô hình hiện nay vẫn là hành chính phân tán theo ngành dọc, trong khi Nghị quyết 57 yêu cầu điều phối liên ngành và đổi mới sáng tạo theo hệ sinh thái. Việc phân tán đầu mối khiến không có cơ quan “chủ quản về nội dung đổi mới sáng tạo” để gắn kết các phản ánh thành một bức tranh tổng thể.
Về khoa học quản trị, đây là biểu hiện của sự thiếu năng lực điều phối (coordination deficit) trong hệ thống hành chính: mỗi đơn vị thực hiện đúng phần việc của mình, nhưng không có cơ chế học hỏi và tổng hợp liên thông. Hệ thống trở thành một tập hợp quy trình độc lập, không hình thành được dòng chảy thông tin hai chiều giữa người dân và Nhà nước.
5. Hệ quả của thực trạng
Nếu các bất cập trên tiếp tục kéo dài, sẽ phát sinh những hệ quả sâu rộng:
Làm mất niềm tin của người dân và giới khoa học – doanh nghiệp vào cơ chế tiếp nhận sáng kiến, khiến hệ thống phản ánh – kiến nghị trở thành hình thức.
Làm chậm tiến độ thực hiện Nghị quyết 57, vì các sáng kiến cụ thể từ cơ sở – vốn là “nguồn sống” của đổi mới sáng tạo – không được xử lý kịp thời và đúng trọng tâm.
Giảm hiệu lực chính trị của Quy chế 03, khiến quy trình được quy định rõ nhưng không được thực thi thực chất.
Phá vỡ mối liên thông giữa trung ương và địa phương, khi người dân không nhận được phản hồi thống nhất, còn cơ quan trung ương không thu được thông tin thực tiễn để hoàn thiện chính sách.
Ba tình trạng nêu trên cho thấy sự đứt gãy giữa tinh thần chính trị của Nghị quyết 57 và cơ chế hành chính thực thi Quy chế 03. Đây không chỉ là lỗi kỹ thuật, mà là vấn đề về phương pháp quản lý và tổ chức điều phối chính sách.
Để khắc phục, cần sớm xác lập một đầu mối điều phối thống nhất – ví dụ Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM ở cấp địa phương, hoặc một đơn vị chuyên trách ở cấp Bộ – có trách nhiệm tổng hợp, phản hồi, theo dõi và hỗ trợ người phản ánh, sáng kiến đến cùng, đảm bảo hệ thống không chỉ vận hành đúng quy trình, mà thực sự khuyến khích và giải phóng tiềm năng đổi mới từ xã hội. I. Cơ sở của kiến nghị
Cơ sở chính trị – pháp lý
Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã xác định khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực trung tâm cho phát triển quốc gia. Quy chế số 03-QC/VPTW quy định Văn phòng Trung ương Đảng và các cơ quan liên quan có trách nhiệm tổ chức tiếp nhận, tổng hợp, xử lý, phản hồi kịp thời các sáng kiến, phản ánh, kiến nghị của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài hệ thống chính trị.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực tế, còn thiếu các quy định cụ thể về đầu mối, phương pháp phối hợp, quy trình hỗ trợ người kiến nghị và cơ chế giám sát trách nhiệm của cơ quan chủ trì.
Cơ sở thực tiễn
Thực tế thời gian qua cho thấy ba nhóm vướng mắc chủ yếu:
(1) Một số bộ, ngành tiếp nhận kiến nghị nhưng không xử lý đúng thời hạn quy định, không có thông tin phản hồi, vi phạm Quy chế 03 mà chưa có chế tài hoặc cơ chế nhắc nhở.
(2) Nhiều phản hồi mang tính hình thức, chung chung, không chỉ rõ nội dung cần làm rõ, mức độ thông tin, hoặc trách nhiệm thuộc về bên nào. Điều này khiến người gửi kiến nghị không hiểu cần hoàn thiện gì, dẫn đến bế tắc trong đối thoại chính sách.
(3) Một số nội dung sau khi tiếp nhận lại bị phân tán về nhiều sở, ngành cùng lúc, không có đầu mối chủ trì thực sự chịu trách nhiệm theo dõi, tổng hợp và trả lời chính thức. Cơ quan chủ trì không cử cán bộ trực tiếp đồng hành, khiến quá trình xử lý bị manh mún, chậm trễ và sai trọng tâm của đề xuất.
Cơ sở khoa học và quản trị
Theo nguyên lý của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia (National Innovation System), cơ chế điều phối phải được tập trung theo đầu mối, bảo đảm dòng thông tin hai chiều giữa người phản ánh – cơ quan xử lý – cơ quan tổng hợp – lãnh đạo hệ thống. Việc thiếu đầu mối chịu trách nhiệm dẫn đến “điểm mù chính sách”, gây mất niềm tin, làm suy giảm năng lực đổi mới thực tiễn của xã hội – vốn là mục tiêu trung tâm mà Nghị quyết 57 đề ra. II. Nội dung kiến nghị cụ thể
Bổ sung quy định về đầu mối chủ trì
Mỗi bộ, ngành, địa phương phải chỉ định một cơ quan chủ trì duy nhất trong việc tiếp nhận và xử lý phản ánh, kiến nghị, sáng kiến thuộc phạm vi khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Đối với cấp địa phương, kiến nghị giao Sở Khoa học và Công nghệ là đầu mối duy nhất, chịu trách nhiệm tổng hợp, phân tích, điều phối xử lý và phản hồi đến người kiến nghị, kể cả khi nội dung liên quan đến các lĩnh vực khác như xây dựng, quy hoạch, nông nghiệp, tài chính, môi trường...
Các sở, ngành liên quan chỉ thực hiện vai trò phối hợp chuyên môn, không trực tiếp làm việc riêng rẽ với người kiến nghị, tránh tình trạng phân mảnh, chồng chéo.
Bổ sung cơ chế “đi cùng công dân”
Yêu cầu cơ quan chủ trì phải phân công cán bộ phụ trách từng hồ sơ kiến nghị cụ thể, có trách nhiệm liên hệ, trao đổi, hướng dẫn và đồng hành với người gửi kiến nghị trong suốt quá trình làm rõ nội dung và tổ chức thực hiện.
Cơ quan chủ trì không chỉ “chuyển đơn – nhận phản hồi” mà phải thực hiện vai trò hỗ trợ chính sách, giúp sáng kiến có cơ hội được phát triển thành dự án, đề án hoặc mô hình thí điểm trong thực tế.
Cụ thể hóa trách nhiệm phản hồi và thời hạn xử lý
Mỗi kiến nghị, phản ánh phải được phản hồi bằng văn bản chính thức qua hệ thống, ghi rõ:
Nội dung đã được tiếp nhận;
Cơ quan chủ trì và cán bộ phụ trách;
Thời hạn dự kiến xử lý;
Yêu cầu bổ sung thông tin (nếu có), kèm mô tả rõ ràng nội dung cần làm rõ, căn cứ và mục đích.
Nếu quá hạn mà chưa có phản hồi hoặc phản hồi không đạt yêu cầu, hệ thống phải tự động nhắc nhở và công khai tình trạng xử lý, đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm.
Thiết lập cơ chế tổng hợp định kỳ và học tập chính sách ngược
Hằng quý, Văn phòng Trung ương Đảng tổng hợp các kiến nghị, phản ánh tiêu biểu, phân loại theo nhóm lĩnh vực và gửi báo cáo tới Bộ Chính trị, Ban Kinh tế Trung ương, Bộ Khoa học và Công nghệ để rút kinh nghiệm, cập nhật chính sách và định hướng lại ưu tiên nghiên cứu, thử nghiệm, hỗ trợ đổi mới sáng tạo.
Cơ chế này không chỉ xử lý phản ánh mà còn chuyển hóa kiến nghị thành nguồn dữ liệu chính sách quý giá, phản ánh năng lực sáng tạo từ cơ sở. Mục tiêu của kiến nghị
Bảo đảm người dân, doanh nghiệp, chuyên gia có thể tham gia thật sự vào tiến trình đổi mới chính sách khoa học và công nghệ.
Tăng tính trách nhiệm và minh bạch của cơ quan nhà nước, chuyển từ cách làm hành chính sang mô hình đồng hành, hỗ trợ, thúc đẩy đổi mới.
Góp phần xây dựng văn hóa làm việc của hệ thống đổi mới sáng tạo Việt Nam, nơi mọi ý tưởng đều được lắng nghe, xử lý đúng trọng tâm, có người chịu trách nhiệm đến cùng và có khả năng đi vào thực tiễn.
#
Người gửi: TRƯƠNG NAM THUẬN Thời gian gửi: 13/11/2025
Đề nghị Tỉnh Lâm đồng cần tổ chức các lớp tuận huấn, hướng dẫn cho cán bộ phụ trách về chuyển đổi số tại địa phương
#Cơ chế phát triển hạ tầng số và bảo đảm an toàn thông tin mạng
Người gửi: Đỗ Thanh Hùng Thời gian gửi: 06/11/2025
TÍNH CẤP THIẾT VÀ CƠ SỞ PHÁT TRIỂN DỰ ÁN CÔNG VIÊN SÁCH TP.HCM
1. Tính cấp thiết của dự án
Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh chóng và nhịp sống hiện đại tại TP.HCM, thói quen đọc sách và việc tiếp cận tri thức truyền thống đang bị mai một. Văn hóa đọc, vốn là nền tảng phát triển trí tuệ và nhân cách con người, đang phải cạnh tranh với các hình thức giải trí nhanh, mạng xã hội và nội dung số. Các không gian công cộng hiện hữu, như công viên, hầu hết được thiết kế chủ yếu phục vụ mục đích “cây xanh – cảnh quan”, thiếu các tiện ích văn hóa – tri thức.
Do đó, việc hình thành một Công viên Sách là cần thiết để:
Tạo ra một không gian công cộng mới, hấp dẫn, truyền cảm hứng và khuyến khích văn hóa đọc;
Nâng cao dân trí, thúc đẩy sáng tạo và hình thành lối sống tri thức cho cộng đồng;
Tái tạo cân bằng văn hóa trong đô thị, giữa không gian thương mại và không gian tri thức;
Tạo điểm nhấn văn hóa đô thị, phục vụ nhu cầu trải nghiệm của cả người dân lẫn du khách quốc tế;
Khởi tạo hệ sinh thái văn hóa – kinh tế – sáng tạo, gắn kết xuất bản, ẩm thực, nghệ thuật và công nghệ.
Thời điểm hiện tại là phù hợp, bởi TP.HCM đang hướng tới phát triển thành thành phố sáng tạo, năng động và hội nhập quốc tế, đồng thời nhu cầu về không gian tri thức công cộng, văn hóa trải nghiệm, và điểm đến du lịch mới đang gia tăng.
2. Cơ sở khoa học
Các nghiên cứu quốc tế và thực tiễn đô thị cho thấy:
Công viên không chỉ là “lá phổi xanh” mà còn là trung tâm sinh hoạt văn hóa – xã hội, tăng cường kết nối cộng đồng, cải thiện sức khỏe tinh thần và phát triển kỹ năng xã hội;
Không gian kết hợp sách – cây xanh – trải nghiệm sáng tạo giúp củng cố thói quen đọc, phát triển tư duy phản biện và sáng tạo, đặc biệt ở học sinh, sinh viên và người trẻ;
Các mô hình “Book Park” hay “Library Park” ở các thành phố như Singapore, Seoul, Tokyo chứng minh rằng công viên tri thức tạo ra hiệu ứng lan tỏa tri thức – văn hóa – kinh tế, đồng thời nâng tầm hình ảnh đô thị.
Do đó, việc thiết lập công viên sách tại TP.HCM dựa trên cơ sở khoa học về tâm lý học giáo dục, phát triển cộng đồng và quy hoạch đô thị hiện đại, giúp tăng cường sự tương tác giữa con người – tri thức – không gian.
3. Cơ sở pháp lý
Dự án Công viên Sách hoàn toàn phù hợp với hệ thống pháp luật Việt Nam và các chủ trương phát triển văn hóa, bao gồm:
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Thể dục – Thể thao, Luật Du lịch và các nghị quyết về phát triển đô thị bền vững;
Nghị quyết 57/NQ-CP năm 2022 về cơ chế hỗ trợ, phát triển hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, khuyến khích các mô hình xã hội – văn hóa mới;
Chiến lược phát triển văn hóa đọc quốc gia 2021–2030: khuyến khích các địa phương phát triển hệ thống thư viện, không gian đọc, và điểm đến tri thức công cộng;
Các văn bản quy hoạch đô thị của TP.HCM về không gian công cộng, mảng xanh, phố đi bộ, trung tâm văn hóa, thư viện, cho phép tích hợp chức năng văn hóa – tri thức vào công viên hiện hữu.
Như vậy, Công viên Sách không vi phạm quy định hiện hành mà thậm chí được khuyến khích về mặt pháp lý, với tiềm năng nhận hỗ trợ từ chính sách khuyến khích sáng tạo, đổi mới và phát triển văn hóa.
4. Cơ sở lý luận – thực tiễn về văn hóa đọc tại TP.HCM
TP.HCM là trung tâm kinh tế – văn hóa – sáng tạo lớn nhất Việt Nam, nhưng văn hóa đọc hiện đang thiếu một điểm nhấn cộng đồng quy mô, ngoài các mô hình nhỏ như Đường sách Nguyễn Văn Bình;
Người dân, đặc biệt là học sinh, sinh viên, gia đình và khách du lịch quốc tế, cần không gian đọc mở, hấp dẫn, gắn với trải nghiệm văn hóa – giải trí – sáng tạo;
Công viên sách sẽ tạo điều kiện để văn hóa đọc trở thành một lối sống, một hệ sinh thái đô thị, nơi tri thức kết hợp cùng kinh tế sáng tạo, ẩm thực, nghệ thuật và công nghệ;
Dự án đáp ứng xu hướng đô thị toàn cầu, nơi tri thức và sáng tạo được đưa vào thiết kế không gian công cộng, vừa nâng cao chất lượng sống, vừa góp phần phát triển kinh tế sáng tạo – du lịch văn hóa bền vững.
Công viên Sách TP.HCM là dự án cấp thiết, khả thi và phù hợp pháp lý, mang ý nghĩa chiến lược về phát triển văn hóa, tri thức, sáng tạo và kinh tế đô thị. Nó không chỉ tạo ra không gian đọc sách hấp dẫn, mà còn hình thành hệ sinh thái văn hóa – sáng tạo – kinh tế, góp phần nâng tầm TP.HCM trở thành thành phố tri thức, sáng tạo và bản sắc, xứng tầm quốc tế. Tinh thần Nghị quyết 57/NQ-CP về phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo
Nghị quyết 57 khẳng định tầm quan trọng của việc xây dựng môi trường sáng tạo – tri thức – đổi mới, đồng thời khuyến khích các mô hình xã hội hóa khoa học, công nghệ và tri thức để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Công viên Sách TP.HCM hoàn toàn phù hợp với tinh thần này, vì:
Nó là không gian tri thức mở, nơi con người tiếp cận, chia sẻ và tạo ra tri thức mới;
Hỗ trợ phát triển công nghệ sáng tạo trong xuất bản, đọc sách điện tử, audiobook, VR/AR gắn với tri thức;
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xã hội, startup văn hóa và các sáng kiến giáo dục – tri thức phát triển, thực hiện mục tiêu của Nghị quyết 57 về cộng sinh tri thức – đổi mới – sáng tạo.
Luật Khoa học – Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (2020)
Luật này khuyến khích tích hợp tri thức và sáng tạo vào đời sống xã hội, đồng thời thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng và doanh nghiệp trong nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo. Công viên Sách là mô hình điển hình:
Kết hợp văn hóa đọc – giáo dục – công nghệ, trở thành “trung tâm tri thức ngoài trời” thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng sáng tạo;
Tạo nền tảng cho thử nghiệm, trải nghiệm, và lan tỏa sáng kiến văn hóa – giáo dục, từ đó khuyến khích người dân và các tổ chức tham gia phát triển tri thức.
Luật Văn hóa – Di sản (2016) và Chiến lược phát triển văn hóa quốc gia
Luật Văn hóa – Di sản và các chiến lược phát triển văn hóa nhấn mạnh việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, di sản và phát triển văn hóa trở thành động lực kinh tế – xã hội. Công viên Sách TP.HCM đáp ứng các mục tiêu này:
Tạo môi trường giáo dục văn hóa, giao lưu tri thức và sáng tạo, gắn với truyền thống văn hóa Việt Nam;
Giúp văn hóa đọc trở thành trụ cột phát triển con người và xã hội, thúc đẩy đô thị hóa văn minh, nâng cao dân trí và bản sắc đô thị;
Hình thành điểm đến văn hóa – du lịch đặc trưng, liên kết với các di sản, phố đi bộ, trung tâm văn hóa, góp phần quảng bá hình ảnh TP.HCM – Việt Nam ra quốc tế.
Văn hóa là trụ cột tăng trưởng quốc gia
Các chiến lược phát triển văn hóa quốc gia định hướng: văn hóa không chỉ là giá trị tinh thần mà còn là động lực kinh tế, sáng tạo và xã hội. Công viên Sách là mô hình cụ thể hóa
Kết hợp giá trị tri thức – văn hóa – kinh tế, tạo chuỗi giá trị từ sách đến ẩm thực, du lịch, nghệ thuật, công nghiệp sáng tạo;
Tạo nền tảng sáng tạo và khởi nghiệp văn hóa, nâng tầm tri thức Việt, phát triển thương hiệu, sản phẩm xuất khẩu dựa trên văn hóa và trí tuệ;
Xây dựng TP.HCM thành thành phố tri thức – sáng tạo, nơi văn hóa đọc trở thành động lực phát triển bền vững, vừa nâng cao dân trí, vừa thúc đẩy kinh tế sáng tạo và du lịch văn hóa.
Việc triển khai Công viên Sách TP.HCM lúc này là hết sức cấp thiết, bởi dự án kết hợp tinh thần Nghị quyết 57, Luật Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, Luật Văn hóa – Di sản, và chiến lược phát triển văn hóa quốc gia, tạo ra một nền tảng tri thức – văn hóa – kinh tế đô thị, đáp ứng nhu cầu phát triển đô thị hiện đại, đồng thời khẳng định vị thế TP.HCM là thành phố sáng tạo, tri thức và bản sắc trên trường quốc tế. HIỆN TRẠNG VĂN HÓA ĐỌC VÀ CÁC KHU VỰC SÁCH TẠI TP.HCM
Hiện nay, TP.HCM đã có một số khu vực sách, điểm đọc và nhà sách, nổi bật nhất là Đường sách Nguyễn Văn Bình. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy những khu vực này vẫn còn nhiều hạn chế:
Quy mô và phạm vi chưa xứng tầm
Các khu vực sách hiện hữu còn nhỏ hẹp, không đủ sức phục vụ hàng triệu người dân và du khách;
Đường sách Nguyễn Văn Bình là mô hình thành công nhưng quy mô quá hạn chế, không đáp ứng nhu cầu đọc, giao lưu, trải nghiệm sáng tạo rộng khắp thành phố.
Thiếu các quần thể văn hóa đọc
Nhà sách và các điểm bán sách hiện nay chủ yếu tập trung vào bán hàng và thương mại, thiếu các hoạt động tương tác cộng đồng, giao lưu tác giả – độc giả, hội thảo, tọa đàm;
Không có không gian tổ chức sự kiện tri thức liên tục, dẫn đến việc sách tồn tại ở dạng tĩnh, không tạo ra sức sống lâu dài cho cộng đồng đọc.
Hệ sinh thái đọc chưa hoàn chỉnh
Các thành phần của hệ sinh thái đọc, gồm thư viện cộng đồng, không gian đọc mở, quán cà phê sách, sân chơi sáng tạo, xưởng workshop, sự kiện văn hóa, chưa được tích hợp đồng bộ;
Môi trường đọc hiện nay chưa đủ hấp dẫn để thay đổi thói quen đọc, đặc biệt đối với giới trẻ, học sinh, sinh viên, dẫn đến việc văn hóa đọc chưa trở thành lối sống đô thị.
Tách biệt với không gian đô thị
Các khu vực sách hiện nay ít liên kết với công viên, phố đi bộ, trung tâm văn hóa, trường học;
Người dân đến các điểm đọc chủ yếu để mua sách, chứ chưa được trải nghiệm không gian tri thức toàn diện, tạo ra tương tác xã hội và cảm xúc sâu sắc.
Như vậy, TP.HCM hiện đang thiếu một mô hình đọc sách quy mô lớn, có hệ sinh thái đồng bộ, kết hợp tri thức – văn hóa – sáng tạo và giải trí, vừa phục vụ cộng đồng, vừa trở thành biểu tượng văn hóa đô thị.
Đây chính là cơ sở để Công viên Sách ra đời: một không gian mở, quy mô, tích hợp các thành phần của hệ sinh thái tri thức, trở thành điểm đến văn hóa – tri thức – sáng tạo hàng đầu, khơi dậy thói quen đọc sách và thúc đẩy phát triển văn hóa, giáo dục, du lịch và kinh tế sáng tạo tại TP.HCM. 1. Mục tiêu của đề án
Xây dựng mô hình Công viên Sách đầu tiên tại Việt Nam, kết hợp không gian xanh, tri thức, văn hóa và sáng tạo, trở thành biểu tượng văn hóa – tri thức của TP.HCM.
Tạo dựng hệ sinh thái đọc hoàn chỉnh, bao gồm thư viện, khu đọc mở, quán cà phê sách, xưởng sáng tạo, sự kiện văn hóa và giáo dục, gắn kết cộng đồng, doanh nghiệp xã hội, các tổ chức giáo dục.
Khơi dậy thói quen đọc và nâng cao dân trí, đặc biệt với học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên, người cao tuổi và cộng đồng yêu sách.
Kích hoạt chuỗi giá trị văn hóa – kinh tế – sáng tạo, liên kết văn hóa đọc với du lịch, ẩm thực, nghệ thuật, xuất bản, và các ngành công nghiệp sáng tạo.
Hình thành điểm đến văn hóa – tri thức quy mô quốc gia và quốc tế, góp phần nâng tầm TP.HCM thành “thành phố tri thức – sáng tạo” trong khu vực ASEAN.
2. Nhóm đối tượng hưởng lợi
Người dân TP.HCM: học sinh, sinh viên, người lao động, người cao tuổi, gia đình;
Du khách trong nước và quốc tế, muốn trải nghiệm văn hóa đọc, giải trí tri thức và sáng tạo;
Các tổ chức giáo dục, thư viện, nhà xuất bản, đơn vị phát hành sách, các nhóm sáng tạo, startup văn hóa;
Doanh nghiệp và các quán cà phê – ẩm thực, có thể kết nối với hệ sinh thái tri thức để phát triển mô hình kinh tế – văn hóa.
3. Giá trị dự kiến đem lại
Văn hóa – xã hội:
Nâng cao thói quen đọc và dân trí, thúc đẩy giao lưu tri thức – sáng tạo;
Tăng cường sự gắn kết cộng đồng, kết nối các nhóm tri thức, sáng tạo, giáo dục;
Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa Việt trong đời sống hiện đại.
Kinh tế:
Doanh thu trực tiếp từ bán sách, dịch vụ trải nghiệm, ẩm thực, sự kiện văn hóa;
Gia tăng giá trị bất động sản xung quanh và phát triển du lịch văn hóa;
Hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo, ẩm thực, xuất bản, truyền thông.
Giá trị biểu tượng và chiến lược:
Là mô hình tiên phong, có thể nhân rộng ra Hà Nội, Đà Nẵng, Huế;
Khẳng định TP.HCM là “thành phố tri thức – sáng tạo”, mở ra cơ hội cho hợp tác quốc tế về văn hóa, giáo dục và sáng tạo;
Trở thành biểu tượng phát triển văn hóa – tri thức – kinh tế bền vững theo định hướng chiến lược quốc gia.
4. Nội dung nghiên cứu của đề án
Khảo sát hiện trạng văn hóa đọc tại TP.HCM, phân tích các mô hình sách, khu đọc, điểm giao lưu tri thức hiện hữu;
Nghiên cứu mô hình công viên sách quốc tế, xác định các thành phần chính: quảng trường tri thức, phố sách, thư viện cộng đồng, xưởng sáng tạo, không gian trải nghiệm, quán cà phê – ẩm thực;
Đề xuất cơ chế quản lý và vận hành, bao gồm:
Quản lý nhà nước – xã hội hóa – doanh nghiệp;
Hợp tác với các nhà xuất bản, thư viện, trường học, startup sáng tạo;
Chiến lược tổ chức sự kiện, hội sách, lễ hội văn hóa thường xuyên.
Đề xuất cơ sở hạ tầng và thiết kế không gian, bao gồm: cây xanh, sân chơi, không gian đọc mở, công trình tiện ích, kết nối giao thông, an ninh, chiếu sáng;
Đánh giá tác động kinh tế – văn hóa – xã hội, dự kiến lượt khách, doanh thu, lợi ích cộng đồng, tác động truyền thông và thương hiệu TP.HCM;
Xây dựng lộ trình triển khai, giai đoạn thí điểm – hoàn thiện – nhân rộng.
5. Vị trí lựa chọn đề xuất
Công viên Lê Văn Tám, quận 1, TP.HCM
Lý do lựa chọn:
Vị trí trung tâm, kết nối các tuyến đường lớn, dễ tiếp cận;
Không gian cây xanh hiện hữu, có thể kết hợp giữa công viên sinh thái và công viên tri thức;
Lịch sử và giá trị biểu tượng, từ nghĩa trang đến công viên, nay có thể trở thành “công viên sách” mang chiều sâu nhân văn;
Xung quanh có nhiều trường học, quán cà phê, nhà hàng, trung tâm sáng tạo, thuận lợi cho hình thành hệ sinh thái văn hóa – tri thức – sáng tạo;
Gần các điểm du lịch, trung tâm văn hóa, thuận lợi cho tham quan, tổ chức sự kiện và liên kết không gian đô thị. 1. Ứng dụng thực tiễn của đề án
Thúc đẩy văn hóa đọc và nâng cao dân trí
Tạo ra môi trường đọc sách hấp dẫn, kết hợp trải nghiệm trực tiếp, không gian mở và tương tác cộng đồng;
Khuyến khích thói quen đọc từ trẻ em đến người cao tuổi, góp phần hình thành lối sống tri thức và sáng tạo;
Hỗ trợ giáo dục ngoài nhà trường, cung cấp nguồn tài nguyên học tập phong phú, đa dạng.
Tạo không gian văn hóa công cộng đa chiều
Biến công viên từ “lá phổi xanh” đơn thuần thành công viên tri thức – văn hóa – sáng tạo, nơi cộng đồng tham gia, trải nghiệm và phát triển kỹ năng;
Hình thành điểm giao lưu văn hóa, nghệ thuật, triển lãm, tọa đàm, hội sách, lễ hội sáng tạo thường xuyên.
Kích hoạt kinh tế sáng tạo và ngành công nghiệp văn hóa
Tạo mô hình kinh tế đêm tri thức: doanh thu từ sách, ẩm thực, trải nghiệm, sự kiện;
Liên kết xuất bản, nghệ thuật, ẩm thực, phim ảnh, thời trang thủ công, đưa văn hóa trở thành động lực phát triển kinh tế đô thị;
Hỗ trợ doanh nghiệp văn hóa, startup sáng tạo và các dự án xã hội.
Mở rộng quy mô và khả năng nhân rộng
Là mô hình thử nghiệm quy mô, có thể nhân rộng ra các thành phố khác: Hà Nội, Đà Nẵng, Huế;
Cung cấp dữ liệu, kinh nghiệm quản lý, vận hành, kết hợp nhà nước – xã hội – doanh nghiệp cho các dự án công viên tri thức tương tự.
Đóng góp vào chiến lược phát triển đô thị thông minh – sáng tạo
Tích hợp công viên sách vào tổng thể quy hoạch đô thị, kết nối với phố đi bộ, trung tâm văn hóa, trường học, thư viện;
Tăng cường sự tương tác giữa không gian xanh, văn hóa, giáo dục, giải trí và kinh tế, trở thành trung tâm sinh hoạt cộng đồng năng động. 2. Điểm đột phá của mô hình Công viên Sách so với thông thường
Hệ sinh thái tri thức – văn hóa – sáng tạo đồng bộ
Không chỉ là bán sách hay thư viện, mà là quảng trường tri thức, phố sách, xưởng sáng tạo, không gian đọc mở, quán cà phê tri thức, ẩm thực gắn văn hóa;
Sách trở thành trung tâm, nhưng được sống trong hoạt động sáng tạo, giao lưu, trải nghiệm và sản xuất văn hóa.
Tương tác đa chiều và trải nghiệm cộng đồng
Loại bỏ ranh giới khô cứng giữa tác giả – độc giả, người sáng tạo – người thưởng thức;
Sự kiện thường xuyên, hội sách đêm, triển lãm, tọa đàm, sân chơi sáng tạo cho trẻ, yoga, thiền, các lớp học ngắn hạn;
Tạo ra nhịp điệu tri thức liên tục, người dân quay lại nhiều lần để trải nghiệm khác nhau.
Kết nối không gian đô thị và phát triển kinh tế sáng tạo
Gắn công viên với phố đi bộ, trung tâm văn hóa, quán cà phê, trường học, ẩm thực, du lịch;
Hình thành một trạm phát sóng tri thức – văn hóa – thương mại, biến văn hóa đọc thành động lực tăng trưởng kinh tế;
Tích hợp các công nghệ mới: sách điện tử, audiobook, thực tế ảo (VR), trải nghiệm sáng tạo kỹ thuật số.
Biểu tượng văn hóa – tri thức quy mô quốc gia và quốc tế
Là công viên sách đầu tiên và quy mô nhất Việt Nam;
Có thể tổ chức hội chợ sách quốc tế, lễ hội đọc, giao lưu tác giả, tạo dấu ấn trên bản đồ văn hóa ASEAN;
Không chỉ phục vụ nhu cầu cá nhân, mà là nền tảng xuất khẩu tri thức, ý tưởng, sản phẩm sáng tạo Việt Nam.
Phát triển văn hóa đọc gắn liền với đời sống và lối sống đô thị
Đọc sách không còn là hoạt động cá nhân, mà trở thành lối sống cộng đồng, gắn với giải trí, nghệ thuật, giáo dục và thể thao tinh thần;
Hình thành các “thói quen đọc tự nhiên” từ trẻ em, sinh viên, đến người cao tuổi, trong một môi trường xanh, sáng tạo, an toàn và thân thiện. 1. Tính khả thi của mô hình
Vị trí chiến lược và sẵn có hạ tầng
Lựa chọn Công viên Lê Văn Tám nằm trung tâm TP.HCM, kết nối các tuyến giao thông chính, gần trường học, nhà văn hóa, quán cà phê, nhà hàng và trung tâm thương mại;
Không gian cây xanh hiện hữu, dễ tích hợp các tiện ích mới;
Tính khả thi về pháp lý cao: đất công, thuộc quản lý Sở Văn hóa & Thể thao, thuận lợi trong thủ tục cấp phép và xã hội hóa đầu tư.
Mô hình vận hành kết hợp nhiều nguồn lực
Sự phối hợp giữa Nhà nước – doanh nghiệp – xã hội dân sự đảm bảo nguồn vốn và quản lý bền vững;
Xã hội hóa: quán cà phê, gian hàng sách, dịch vụ trải nghiệm;
Dễ dàng thu hút tài trợ, hợp tác với nhà xuất bản, trường học, startup sáng tạo và các tổ chức văn hóa.
Khả năng đáp ứng nhu cầu cộng đồng
Thói quen đọc sách và nhu cầu trải nghiệm văn hóa ngày càng tăng ở TP.HCM;
Thiếu không gian công cộng quy mô, đa năng, văn hóa đọc là một nhu cầu thực tế;
Các mô hình tương tự trên thế giới (City Library, Book Garden) đã chứng minh thành công về thu hút cộng đồng, doanh thu dịch vụ và tác động xã hội.
2. Điểm đổi mới sáng tạo
Hệ sinh thái tri thức – văn hóa – sáng tạo
Không chỉ là nơi đọc sách, mà tích hợp quảng trường tri thức, phố sách, thư viện cộng đồng, xưởng sáng tạo, quán cà phê – ẩm thực, sân thể thao và không gian sự kiện;
Kết hợp trải nghiệm thực tế ảo, sách điện tử, audiobook, tương tác đa phương tiện.
Kết nối cộng đồng và đô thị
Thiết kế mở, dễ tiếp cận, khuyến khích mọi lứa tuổi tham gia;
Không gian linh hoạt tổ chức hội sách, triển lãm, lễ hội, workshop, tạo mạch trải nghiệm liên tục;
Liên kết với các trung tâm văn hóa, trường học, phố đi bộ, tạo điểm đến văn hóa thường trực trong đô thị.
Tích hợp kinh tế sáng tạo và văn hóa
Mô hình tạo ra chuỗi giá trị: sách → giáo dục → giải trí → thương mại → du lịch;
Ẩm thực, quán cà phê, sản phẩm thủ công, thời trang địa phương gắn với nội dung sách và sự kiện;
Mở ra kinh tế đêm tri thức, vừa mang lại doanh thu, vừa tăng cường văn hóa đô thị.
3. Đóng góp vào tăng trưởng bền vững của TP.HCM
Văn hóa và xã hội
Nâng cao tri thức, thói quen đọc, tư duy sáng tạo, kỹ năng xã hội cho cộng đồng;
Tạo môi trường giao lưu liên thế hệ, kết nối trí thức, nghệ sĩ, nhà sáng tạo;
Hình thành điểm nhấn văn hóa – xã hội trung tâm, tăng tính hấp dẫn và bản sắc đô thị.
Kinh tế – sáng tạo
Doanh thu trực tiếp: bán sách, dịch vụ trải nghiệm, ẩm thực, hội sách;
Doanh thu gián tiếp: du lịch, sản phẩm sáng tạo, thương hiệu địa phương;
Kích hoạt chuỗi giá trị văn hóa – sáng tạo, góp phần đa dạng hóa nền kinh tế đô thị.
Bền vững môi trường và đô thị
Kết hợp cây xanh hiện hữu, không gian công cộng, tiện ích thân thiện với môi trường;
Hình thành mô hình “công viên thông minh – sinh thái – tri thức” có thể nhân rộng;
Thúc đẩy văn hóa sống xanh, học tập, vận động, thư giãn – cân bằng đời sống đô thị hóa nhanh.
Tóm lại, mô hình Công viên Sách TP.HCM không chỉ khả thi về mặt hạ tầng, pháp lý và nguồn lực, mà còn đột phá về cách tiếp cận văn hóa đọc, sáng tạo, kinh tế đô thị và trải nghiệm cộng đồng. Đây là công cụ chiến lược để TP.HCM vừa nâng cao tri thức, vừa tạo ra giá trị kinh tế và xã hội bền vững, đồng thời hình thành biểu tượng văn hóa – tri thức xứng tầm quốc tế. KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI DỰ ÁN CÔNG VIÊN SÁCH TP.HCM
1. Nguyên tắc tổ chức không gian và chức năng
Không gian mở, kết nối và đa chiều: Mỗi khu vực phải tương tác với nhau, không tách biệt, tạo thành hệ sinh thái đọc – sáng tạo – văn hóa.
Ưu tiên cây xanh, tiện ích công cộng, an toàn và thân thiện: Giữ lại cảnh quan hiện hữu, bố trí ghế, đường đi, chiếu sáng, nhà vệ sinh, bãi đậu xe, đảm bảo tiếp cận thuận tiện cho mọi lứa tuổi.
Tích hợp công nghệ và tương tác: Ứng dụng sách điện tử, audiobook, VR, AR, trải nghiệm đa phương tiện, kết hợp giáo dục STEM và sáng tạo nghệ thuật.
Linh hoạt cho sự kiện và phát triển cộng đồng: Không gian có thể điều chỉnh cho hội sách, triển lãm, tọa đàm, lễ hội sáng tạo.
2. Các khu chức năng chính
2.1 Quảng trường tri thức trung tâm
Là trái tim của công viên sách, nơi hội tụ các hoạt động lớn: ra mắt sách, tọa đàm, biểu diễn nghệ thuật, chiếu phim văn học;
Diện tích dự kiến: 3.000–5.000 m², thiết kế mở, có sân khấu ngoài trời, chỗ ngồi di động;
Trang bị hệ thống âm thanh, ánh sáng, wifi công cộng, màn hình hiển thị thông tin sự kiện;
Không gian cho các hoạt động sáng tạo, workshop, lớp học ngắn hạn cho trẻ và thanh thiếu niên.
2.2 Phố sách và các gian trưng bày
Dãy phố sách dài, bố trí theo chủ đề: sách giáo dục, văn học, sách thiếu nhi, sách nghiên cứu, sách nghệ thuật;
Kết hợp nhà xuất bản, đơn vị phát hành, nhóm làm sách độc lập;
Khu vực giới thiệu sách điện tử, audiobook, công nghệ thực tế ảo (VR/AR);
Có không gian đọc nhanh, ghế thư giãn, góc bàn để viết và thảo luận.
2.3 Thư viện cộng đồng – khu đọc mở
Thư viện ngoài trời, trong mái kính hoặc bán kính xanh;
Khu đọc yên tĩnh cho người lớn tuổi, sinh viên; góc sáng tạo cho trẻ em;
Trang bị kệ sách di động, sách theo chủ đề luân phiên;
Không gian đọc sách kết hợp với âm nhạc nhẹ, cây xanh và hồ nước.
2.4 Xưởng sáng tạo – phòng workshop
Xưởng nghệ thuật thủ công, vẽ, làm sách, thiết kế bìa, phim ngắn, báo mini;
Tổ chức lớp học kỹ năng kể chuyện, sáng tạo nội dung, STEM – văn hóa;
Không gian dành cho thanh thiếu niên, sinh viên, nhóm sáng tạo khởi nghiệp.
2.5 Quán cà phê – ẩm thực tri thức
Kết hợp cà phê, trà, quán ăn nhẹ gắn với chủ đề văn hóa, sách và vùng miền;
Không gian đa dạng: yên tĩnh cho nghiên cứu, mở cho giao lưu nhóm trẻ, thanh tịnh cho người cao tuổi;
Thức ăn, đồ uống mang ý nghĩa giáo dục, văn hóa hoặc lấy cảm hứng từ sách;
Tích hợp trải nghiệm “ẩm thực – tri thức”: sự kiện nếm thử, kể chuyện qua món ăn, phối hợp với lễ hội sách.
2.6 Khu thể thao – sức khỏe tinh thần
Yoga, thiền, dưỡng sinh, chạy bộ, tập luyện ngoài trời;
Kết hợp đọc sách nhẹ, đọc truyện ngắn, hướng dẫn thư giãn;
Tạo mạch trải nghiệm: vận động – tĩnh lặng – sáng tạo – học tập.
2.7 Không gian sự kiện
Dành cho hội sách, lễ hội văn hóa đọc, triển lãm mỹ thuật, đường thơ, trại sáng tạo;
Diện tích linh hoạt, kết nối quảng trường, phố sách và khu xưởng sáng tạo;
Trang bị cơ sở hạ tầng tạm thời hoặc cố định: lều triển lãm, sân khấu di động, hệ thống chiếu sáng, âm thanh.
3. Hệ sinh thái vận hành
3.1 Quản lý và phối hợp
Nhà nước – xã hội hóa – doanh nghiệp: Sở Văn hóa & Thể thao, Sở Khoa học & Công nghệ TP.HCM cùng quản lý;
Hợp tác với các nhà xuất bản, trường học, thư viện, startup sáng tạo;
Cơ chế xã hội hóa: doanh nghiệp tài trợ sự kiện, quán cà phê, gian hàng sách, workshop;
Hội đồng cố vấn văn hóa – tri thức – đô thị để điều phối chiến lược phát triển dài hạn.
3.2 Hoạt động sự kiện thường xuyên
Hội sách mùa hè, lễ hội đọc, triển lãm sách quốc tế, tọa đàm tác giả;
Chương trình đọc sách đêm, chiếu phim văn học, biểu diễn nhạc/acoustic;
Workshop sáng tạo, kể chuyện, vẽ minh họa, lớp học báo mini cho thanh thiếu niên;
Các hoạt động tương tác với công nghệ: AR, VR, sách điện tử, trải nghiệm đọc sáng tạo.
3.3 Dịch vụ và trải nghiệm
Dịch vụ cho thuê sách, đọc tại chỗ;
Thẻ thành viên, ưu đãi học sinh – sinh viên;
Quán cà phê, ẩm thực kết hợp trải nghiệm sách;
Ứng dụng quản lý sự kiện, đặt chỗ, mua sách trực tuyến, tương tác đa phương tiện.
3.4 Đo lường hiệu quả
Lượt khách tham quan hàng năm, phân theo nhóm đối tượng;
Doanh thu trực tiếp – gián tiếp từ sách, trải nghiệm, ẩm thực, sự kiện;
Tác động xã hội: thói quen đọc, tương tác cộng đồng, sự tham gia vào sáng tạo;
Tác động truyền thông và thương hiệu: đánh giá mức độ ảnh hưởng văn hóa – kinh tế – du lịch.
4. Lộ trình triển khai
Giai đoạn 1 – Khảo sát và thiết kế chi tiết (6–12 tháng)
Khảo sát hiện trạng, nghiên cứu nhu cầu cộng đồng, tham khảo mô hình quốc tế;
Thiết kế kiến trúc, phân khu chức năng, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ;
Lập kế hoạch quản lý, vận hành, ngân sách và nguồn lực.
Giai đoạn 2 – Thí điểm và triển khai ban đầu (12–18 tháng)
Xây dựng quảng trường tri thức, phố sách, thư viện cộng đồng, quán cà phê – ẩm thực;
Thử nghiệm hoạt động sự kiện nhỏ, workshop sáng tạo;
Đo lường phản hồi cộng đồng, điều chỉnh vận hành.
Giai đoạn 3 – Hoàn thiện và mở rộng (18–36 tháng)
Hoàn thiện các khu xưởng sáng tạo, sân thể thao, không gian sự kiện;
Tổ chức hội sách quốc tế, lễ hội văn hóa định kỳ;
Thiết lập cơ chế bền vững: quản lý – xã hội hóa – doanh nghiệp, bảo trì, cập nhật công nghệ;
Lập kế hoạch nhân rộng mô hình ra các khu vực khác. Kính gửi:
Ban Thường vụ Thành ủy TP.HCM
Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM
V/v: Đề xuất xây dựng dự án “Công viên Sách TP.HCM” – Mô hình sáng tạo văn hóa và tri thức
Kính thưa Quý Lãnh đạo,
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa và sáng tạo của cả nước. Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh, nhịp sống hiện đại cùng tác động của mạng xã hội và giải trí nhanh, văn hóa đọc truyền thống đang gặp nhiều thách thức. Các mô hình hiện hữu như các khu phố sách, nhà sách, thư viện, mặc dù góp phần lan tỏa tri thức, nhưng chưa thực sự tạo ra hệ sinh thái văn hóa đọc quy mô, liên kết và đa dạng, chưa đủ sức hấp dẫn cộng đồng và chưa phát huy hết tiềm năng văn hóa – kinh tế của thành phố.
Trên tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW về phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, và Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (2025), chúng tôi đề xuất xây dựng “Công viên Sách TP.HCM”, một dự án kết hợp không gian công cộng xanh, văn hóa đọc, sáng tạo và trải nghiệm, nhằm:
Mục tiêu chính của dự án:
Hình thành trung tâm tri thức ngoài trời, nơi hội tụ văn hóa đọc, giáo dục, nghệ thuật và giải trí;
Xây dựng hệ sinh thái văn hóa – tri thức – sáng tạo liên kết cộng đồng, nhà xuất bản, trường học, các tổ chức văn hóa và doanh nghiệp;
Tạo ra điểm nhấn văn hóa – du lịch của TP.HCM, nâng tầm thương hiệu “Thành phố sáng tạo” trên bản đồ quốc tế.
Nhóm đối tượng hưởng lợi:
Học sinh, sinh viên, người dân thành phố;
Các nhà văn hóa, tác giả, nghệ sĩ, nhà xuất bản;
Du khách trong nước và quốc tế;
Doanh nghiệp sáng tạo, ẩm thực và dịch vụ văn hóa.
Giá trị dự kiến:
Văn hóa – xã hội: nâng cao dân trí, thói quen đọc, kết nối tri thức và cộng đồng;
Kinh tế – sáng tạo: thúc đẩy kinh tế tri thức, du lịch văn hóa, chuỗi giá trị văn hóa – thương mại – dịch vụ;
Đô thị – môi trường: tạo không gian xanh, bền vững, kết hợp giải trí, thể thao và văn hóa, góp phần cân bằng đời sống đô thị.
Nội dung nghiên cứu và triển khai:
Thiết kế không gian mở, linh hoạt, kết hợp quảng trường tri thức, phố sách, thư viện cộng đồng, không gian workshop sáng tạo, quán cà phê và ẩm thực;
Xây dựng các sự kiện định kỳ: hội sách, triển lãm, lễ hội văn hóa đọc, hoạt động sáng tạo;
Ứng dụng công nghệ mới: sách điện tử, audiobook, trải nghiệm thực tế ảo, tương tác đa phương tiện;
Đánh giá tác động xã hội, kinh tế và môi trường, đảm bảo tính bền vững và nhân rộng mô hình.
Vị trí đề xuất:
Công viên Lê Văn Tám – trung tâm TP.HCM, thuận tiện kết nối giao thông, gần trường học, nhà văn hóa, quán cà phê và các trung tâm sáng tạo;
Không gian cây xanh sẵn có, dễ dàng tích hợp các tiện ích mới, tạo điểm nhấn văn hóa trong đô thị.
Tính cấp thiết của dự án được thể hiện qua:
Nhu cầu bức thiết tạo ra một không gian tri thức và văn hóa mở, đáp ứng nhu cầu đọc, học tập, sáng tạo của cộng đồng;
Đóng góp vào phát triển kinh tế sáng tạo, tạo chuỗi giá trị liên ngành từ sách, giáo dục, du lịch đến thương mại;
Thực hiện tinh thần đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa, theo định hướng chiến lược phát triển TP.HCM trở thành “thành phố sáng tạo, tri thức” trong khu vực;
Thúc đẩy văn hóa đọc trở thành trụ cột phát triển văn hóa và tăng trưởng bền vững, phù hợp với các chiến lược quốc gia về văn hóa, khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Với các cơ sở khoa học, pháp lý và thực tiễn nêu trên, chúng tôi kính đề nghị Quý Lãnh đạo xem xét chủ trương nghiên cứu, lập đề án khả thi và triển khai dự án Công viên Sách TP.HCM. Dự án không chỉ là một công trình văn hóa, mà còn là biểu tượng tri thức, trung tâm kết nối sáng tạo và động lực tăng trưởng bền vững cho thành phố.
Kính mong nhận được sự quan tâm, chỉ đạo và tạo điều kiện của Thành ủy TP.HCM và Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM để dự án sớm được triển khai.
Trân trọng kính chào!
#
Người gửi: TRƯƠNG NAM THUẬN Thời gian gửi: 01/11/2025
I. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh phát triển đô thị mạnh mẽ, TP. Hồ Chí Minh đang mở rộng không gian đô thị về các vùng ngoại vi, nơi có diện tích lớn dành cho nông nghiệp. Vùng ngoại vi không chỉ là nguồn cung cấp thực phẩm cho đô thị mà còn là nơi tạo sinh kế cho người dân nông thôn, nhất là thế hệ trẻ. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa, biến đổi khí hậu, biến động thị trường nông sản và sự thiếu hụt nguồn lực kỹ thuật, nhân lực có kỹ năng đang đặt ra những thách thức nghiêm trọng:
Nguy cơ suy giảm sản xuất nông nghiệp: đất nông nghiệp bị chuyển đổi, sản xuất manh mún, thiếu công nghệ và quản lý hiệu quả.
Thanh niên nông thôn thiếu cơ hội phát triển: nhiều người di cư ra thành phố, dẫn đến “già hóa” lực lượng lao động nông nghiệp.
Mất cân bằng an sinh xã hội: người nông dân và gia đình trẻ không tiếp cận đầy đủ dịch vụ y tế, giáo dục, cơ hội việc làm.
Thiếu mô hình sản xuất bền vững: sản xuất nông nghiệp chưa đồng bộ, ít ứng dụng công nghệ, thiếu kết nối thị trường, khó cạnh tranh.
Do đó, nghiên cứu đề tài này là cần thiết để:
Xây dựng mô hình nông nghiệp vừa bảo vệ môi trường, vừa đảm bảo sinh kế cho người dân.
Tạo cơ hội phát triển nghề nghiệp, kỹ năng và khởi nghiệp cho thế hệ trẻ tại vùng nông thôn ngoại vi.
Thúc đẩy liên kết giữa nông dân – chính quyền – doanh nghiệp – trường học, hình thành chuỗi giá trị bền vững.
Góp phần hiện thực hóa các chính sách phát triển vùng ngoại vi, phát triển nông nghiệp bền vững và Nghị quyết 57 về đột phá khoa học – công nghệ – đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. II. Cơ sở lý luận
1. Cơ sở lý luận về thực tiễn
Thực trạng vùng ngoại vi TP.HCM: nhiều huyện ngoại thành có diện tích đất nông nghiệp lớn (như Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh) nhưng sản xuất phân tán, năng suất thấp, giá trị gia tăng thấp, chưa tận dụng được lợi thế kết nối với thị trường thành phố.
Áp lực đô thị hóa: đất nông nghiệp đang bị thu hẹp do mở rộng đô thị, hạ tầng, khu công nghiệp; người trẻ rời nông thôn, dẫn đến thiếu lực lượng lao động có kỹ năng.
Nhu cầu bền vững và an sinh: dân cư ngoại vi cần mô hình phát triển kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, đảm bảo an sinh xã hội và việc làm ổn định.
Tiềm năng phát triển thế hệ trẻ: thanh niên nông thôn có nhu cầu học nghề, khởi nghiệp, tham gia các mô hình nông nghiệp thông minh, sáng tạo, kết nối thị trường đô thị.
Thực tiễn cho thấy nếu không có mô hình nghiên cứu – thử nghiệm cụ thể, vùng nông nghiệp ngoại vi có nguy cơ mất dần khả năng sản xuất, suy giảm chất lượng cuộc sống và bỏ lỡ cơ hội phát triển nguồn nhân lực trẻ. 2. Cơ sở lý luận về khoa học
Lý thuyết nông nghiệp bền vững: nhấn mạnh việc cân bằng ba trụ cột: môi trường – kinh tế – xã hội, sử dụng tài nguyên hiệu quả, giảm hóa chất, duy trì năng suất ổn định, nâng cao giá trị sản phẩm.
Lý thuyết về phát triển nguồn nhân lực trẻ và khởi nghiệp nông thôn: sự tham gia của thanh niên vào nông nghiệp hiện đại tạo động lực sáng tạo, tăng năng suất lao động, và tạo ra các mô hình kinh doanh đổi mới sáng tạo.
Lý thuyết hệ thống và liên kết chuỗi giá trị: mô hình hợp tác xã nông nghiệp – doanh nghiệp – trường nghề tạo mạng lưới liên kết chặt chẽ từ sản xuất đến tiêu thụ, bảo đảm kinh tế khả thi và bền vững.
Khoa học công nghệ và chuyển đổi số trong nông nghiệp: ứng dụng IoT, dữ liệu lớn, AI, sensor giúp quản lý sản xuất, dự báo thị trường, tối ưu hóa đầu ra, bảo đảm sản xuất thông minh và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Lý thuyết phát triển vùng và đô thị ngoại vi: nhấn mạnh vai trò vùng ngoại vi trong cân bằng phát triển đô thị – nông thôn, bảo vệ không gian xanh, đảm bảo an ninh lương thực và sinh kế bền vững.
Như vậy, cơ sở khoa học xác định rằng mô hình nông nghiệp bền vững, kết hợp phát triển nguồn nhân lực trẻ và đổi mới sáng tạo là phù hợp, khả thi và có thể đo lường kết quả bằng các chỉ số về môi trường, kinh tế và xã hội. 3. Cơ sở lý luận về pháp lý
Luật Đất đai 2013: quy định về quyền sử dụng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng, tạo điều kiện xây dựng các khu nông nghiệp thí điểm.
Luật Nông nghiệp 2018: hỗ trợ phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khuyến khích hợp tác xã, doanh nghiệp tham gia phát triển nông nghiệp bền vững.
Luật Thanh niên 2020: khuyến khích thanh niên tham gia phát triển kinh tế, đổi mới sáng tạo, học nghề, phát triển kỹ năng, bảo đảm quyền lợi, an sinh cho thế hệ trẻ.
Nghị quyết 57-NQ/TW (2024): thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao, có thể áp dụng vào nông nghiệp ngoại vi và phát triển thế hệ trẻ.
Chính sách phát triển vùng ngoại vi TP.HCM: các nghị quyết, kế hoạch của TP.HCM về phát triển nông nghiệp, khu công nghệ, đô thị hóa theo hướng bền vững, an sinh xã hội.
Như vậy, về pháp lý, việc xây dựng mô hình nông nghiệp bền vững tại vùng ngoại vi TP.HCM không những đảm bảo quyền sử dụng đất, phát triển nông nghiệp sạch, hỗ trợ thanh niên mà còn phù hợp với định hướng đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển nguồn nhân lực của Nhà nước. IV. Kết luận về việc cần nghiên cứu
Cần thiết về thực tiễn: để bảo vệ năng lực sản xuất nông nghiệp ngoại vi, nâng cao sinh kế, giữ chân và phát triển thanh niên nông thôn, đảm bảo an sinh xã hội.
Cần thiết về khoa học: áp dụng lý thuyết nông nghiệp bền vững, khoa học quản lý, phát triển nguồn nhân lực trẻ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số – tạo mô hình nghiên cứu có giá trị học thuật và thực tiễn.
Cần thiết về pháp lý: đảm bảo tuân thủ luật pháp, chính sách đất đai, nông nghiệp, thanh niên, đồng thời gắn với Nghị quyết 57 để tạo đột phá đổi mới sáng tạo trong phát triển vùng.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài này là cấp bách, khả thi và mang tính chiến lược, không chỉ cho vùng ngoại vi TP.HCM mà còn là mô hình mẫu để nhân rộng tại các đô thị lớn khác. I. Mục tiêu nghiên cứu
1. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng và thử nghiệm mô hình nông nghiệp bền vững, đảm bảo an sinh xã hội và tạo cơ hội phát triển cho thế hệ trẻ tại vùng ngoại vi TP. Hồ Chí Minh.
Đề xuất cơ chế, chính sách và phương pháp tổ chức, quản trị nhằm kết hợp sản xuất nông nghiệp, phát triển nguồn nhân lực trẻ, ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số để nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội – môi trường.
2. Mục tiêu cụ thể
Về nông nghiệp bền vững:
Xác định mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hữu cơ, ít hóa chất, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản từ sản xuất đến thị trường, kết nối nông dân – doanh nghiệp – đô thị.
Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá tính bền vững (môi trường, năng suất, kinh tế, xã hội).
Về an sinh xã hội:
Bảo đảm quyền lợi người nông dân, thanh niên và gia đình: tiếp cận y tế, giáo dục, nhà ở, dịch vụ xã hội cơ bản.
Giảm thiểu rủi ro kinh tế, thất nghiệp và di cư từ nông thôn ra đô thị.
Thúc đẩy bình đẳng giới trong tham gia nông nghiệp và quản trị hợp tác xã.
Về phát triển thế hệ trẻ:
Tạo cơ hội đào tạo nghề, khởi nghiệp, phát triển kỹ năng quản lý, công nghệ và kinh doanh nông nghiệp.
Khuyến khích thanh niên tham gia vào mô hình hợp tác xã, doanh nghiệp xã hội, dự án đổi mới sáng tạo.
Xây dựng mạng lưới thanh niên nông thôn, kết nối học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm và cơ hội việc làm.
Về chính sách và cơ chế:
Đề xuất cơ chế hỗ trợ đất đai, tín dụng, đào tạo và khuyến khích đổi mới sáng tạo.
Tích hợp các chính sách nông nghiệp, thanh niên, phát triển vùng và Nghị quyết 57 về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. I. Nội dung nghiên cứu đề án
1. Nghiên cứu thực trạng vùng ngoại vi TP.HCM
Quy hoạch và sử dụng đất: khảo sát hiện trạng đất nông nghiệp, đất dự phòng phát triển đô thị, các khu vực đã và đang đô thị hóa.1. Giá trị ứng dụng thực tiễn trong nông nghiệp
Tăng năng suất và chất lượng sản phẩm:
Mô hình nông nghiệp bền vững, áp dụng công nghệ cao, quản lý dữ liệu, canh tác hữu cơ giúp nâng cao năng suất, giảm thất thoát, đảm bảo an toàn thực phẩm cho TP.HCM.
Bảo vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu:
Hạn chế hóa chất, sử dụng công nghệ quản lý nước, đất và năng lượng, duy trì cân bằng sinh thái vùng ngoại vi – góp phần bảo vệ các “lá phổi xanh” gần đô thị.
Tạo chuỗi giá trị nông sản liên kết thị trường:
Kết nối nông dân – hợp tác xã – doanh nghiệp – thị trường đô thị giúp sản phẩm nông nghiệp được tiêu thụ ổn định, tăng giá trị kinh tế.
2. Giá trị đối với phát triển thanh niên
Cơ hội việc làm và khởi nghiệp:
Thanh niên nông thôn được đào tạo kỹ năng công nghệ nông nghiệp, quản lý hợp tác xã, khởi nghiệp kinh doanh nông sản, giúp giảm di cư ra đô thị và tạo động lực sáng tạo tại chỗ.
Phát triển kỹ năng đa ngành:
Mô hình tích hợp cho phép thanh niên học quản trị, công nghệ, marketing nông sản, kết hợp với an sinh xã hội và phát triển cộng đồng.
Hình thành thế hệ lãnh đạo nông nghiệp trẻ:
Thanh niên tham gia vào quản lý, đổi mới sáng tạo, kết nối doanh nghiệp – cộng đồng, hình thành đội ngũ kế thừa năng động, thích ứng với thị trường và công nghệ.
3. Giá trị đối với nhà ở và an sinh xã hội
Nhà ở bền vững cho người lao động nông thôn:
Xây dựng nhà ở hợp lý, giá cả phù hợp, kết hợp tiện ích xã hội, giúp ổn định dân cư, nâng cao chất lượng sống và giảm áp lực di cư vào thành phố.
Dịch vụ xã hội đồng bộ:
Trường học, trạm y tế, nhà văn hóa, khu vui chơi tạo điều kiện cho cộng đồng phát triển toàn diện, gắn kết giữa đời sống và sản xuất.
Ổn định xã hội và nâng cao an sinh:
Giảm chênh lệch giàu – nghèo, cải thiện mức sống, giảm nguy cơ bất ổn xã hội, đặc biệt trong các vùng đang chịu áp lực đô thị hóa.
4. Giá trị trong quy hoạch và phát triển vùng
Tích hợp nông nghiệp – nhà ở – hạ tầng xã hội:
Hướng tới vùng ngoại vi đô thị phát triển đồng bộ, vừa bảo vệ sản xuất nông nghiệp, vừa đảm bảo đời sống và phát triển con người.
Tăng tính bền vững của vùng ngoại vi:
Quy hoạch thông minh, bảo vệ đất nông nghiệp, cảnh quan sinh thái, tạo mô hình chuẩn để nhân rộng ở các huyện ngoại thành khác.
Liên kết vùng và đô thị:
Mô hình tạo kết nối trực tiếp giữa đô thị trung tâm và ngoại vi, giúp quản lý phát triển không gian đô thị – nông thôn hợp lý, đồng thời thúc đẩy chuỗi cung ứng thực phẩm sạch.
5. Giá trị tổng hợp và chiến lược
Thực hiện Nghị quyết 57 và chính sách phát triển TP.HCM:
Đề án thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ, phát triển nguồn nhân lực trẻ và chuyển đổi số trong nông nghiệp – phù hợp tinh thần NQ 57.
Mô hình mẫu cho các đô thị lớn khác:
Vùng ngoại vi TP.HCM có thể trở thành “vùng thí điểm” về nông nghiệp bền vững gắn với an sinh và phát triển thanh niên, nhân rộng mô hình ra các đô thị khác.
Đóng góp trực tiếp cho mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội:
Kết hợp sản xuất nông nghiệp, ổn định đời sống, phát triển con người – tạo hiệu quả kép: vừa nâng giá trị kinh tế, vừa củng cố an sinh và phát triển nguồn lực trẻ. Đề tài có giá trị thực tiễn cao, tác động đa chiều:
Kinh tế: tăng năng suất, tạo chuỗi giá trị nông sản, cải thiện thu nhập.
Xã hội: nâng cao an sinh, ổn định dân cư, phát triển thanh niên.
Môi trường: thúc đẩy nông nghiệp xanh, bảo vệ cảnh quan và tài nguyên.
Quy hoạch vùng: tích hợp không gian nông nghiệp – nhà ở – hạ tầng xã hội, làm mẫu cho các vùng đô thị ngoại vi khác.
Như vậy, nghiên cứu này không chỉ giải quyết các vấn đề cấp bách hiện nay mà còn tạo một mô hình chiến lược, có thể nhân rộng, gắn kết phát triển bền vững và đổi mới sáng tạo cho vùng TP.HCM và các đô thị lớn khác tại Việt Nam. 1. Các nghiên cứu trước đây liên quan
Nhiều nghiên cứu đã khảo sát sản xuất nông nghiệp ngoại vi TP.HCM, tập trung vào năng suất, mô hình canh tác, quản lý đất đai và liên kết thị trường.
Một số công trình phân tích di cư, cơ cấu lao động và bất bình đẳng xã hội giữa đô thị trung tâm và vùng ngoại vi.
Một số nghiên cứu về nông nghiệp đô thị và khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu, an toàn thực phẩm và sinh kế nông dân.
Nhìn chung, các nghiên cứu trước đã cung cấp nền tảng về thực trạng sản xuất nông nghiệp, lao động, đất đai và một phần về an sinh xã hội, nhưng chưa tích hợp đầy đủ quy hoạch, nhà ở, an sinh xã hội và phát triển thế hệ trẻ.
2. Cách gắn kết với đề án hiện tại
Kế thừa dữ liệu thực trạng: sử dụng khảo sát hiện trạng nông nghiệp, lao động, đất đai làm nền tảng để phát triển mô hình mới.
Mở rộng phân tích: bổ sung các yếu tố nhà ở, hạ tầng xã hội và phát triển thanh niên – đây là hướng đi chưa được nghiên cứu đầy đủ trước đây.
Tạo mô hình thử nghiệm: từ dữ liệu và phân tích thực trạng, đề án đề xuất mô hình tích hợp nông nghiệp – nhà ở – an sinh xã hội – phát triển thanh niên.
Liên kết đa ngành: kết hợp quy hoạch, kinh tế, xã hội và công nghệ – vượt ra ngoài phạm vi nghiên cứu đơn ngành trước đó.
3. Hướng nghiên cứu tiếp theo
Thanh niên nông thôn: khảo sát kỹ năng, nhu cầu, cơ hội khởi nghiệp, tham gia nông nghiệp bền vững.
Nhà ở và an sinh xã hội: phát triển mô hình nhà ở phù hợp, tích hợp dịch vụ y tế, giáo dục, không gian cộng đồng.
Công nghệ và chuỗi giá trị số: ứng dụng IoT, dữ liệu, quản lý chuỗi sản phẩm, tiếp cận thị trường.
Cơ chế chính sách và quản trị vùng: đề xuất cơ chế hỗ trợ, đào tạo, liên kết hợp tác xã, doanh nghiệp, thanh niên.
Thí điểm và nhân rộng: triển khai mô hình thử nghiệm, đánh giá hiệu quả về kinh tế, môi trường, xã hội và nhân lực, sau đó mở rộng ra toàn vùng ngoại vi TP.HCM. Đề án “Xây dựng vùng nông nghiệp ngoại vi TP.Hồ Chí Minh: mô hình nông nghiệp bền vững, an sinh và phát triển thế hệ trẻ” mang tính đột phá và sáng tạo ở nhiều mặt, vừa gắn với thực tiễn vùng ngoại vi TP.HCM, vừa mở ra hướng phát triển mới cho nông nghiệp, xã hội và nguồn nhân lực trẻ. Cụ thể:
1. Đột phá về mô hình nông nghiệp
Tích hợp sản xuất bền vững và công nghệ cao:
Áp dụng công nghệ IoT, quản lý dữ liệu, nông nghiệp hữu cơ, tiết kiệm tài nguyên – vừa tăng năng suất, vừa giảm tác động môi trường. Đây là bước tiến so với các mô hình nông nghiệp truyền thống, vốn tập trung vào sản lượng mà ít chú trọng bền vững.
Chuỗi giá trị nông sản kết nối trực tiếp với đô thị:
Mô hình thiết kế liên kết nông dân – hợp tác xã – doanh nghiệp – thị trường đô thị giúp sản phẩm được tiêu thụ ổn định, giảm khâu trung gian, tăng giá trị kinh tế cho người sản xuất.
2. Đột phá về phát triển con người và thanh niên
Khai thác tiềm năng thanh niên nông thôn:
Đề án tạo cơ hội đào tạo, khởi nghiệp, kỹ năng quản trị và công nghệ, thay vì chỉ hướng tới sản xuất. Đây là cách phát triển nguồn lực trẻ ngay tại vùng nông nghiệp, giảm di cư và nâng cao chất lượng lao động.
Xây dựng mô hình “thế hệ trẻ làm nông nghiệp bền vững”:
Thanh niên tham gia vào quản trị hợp tác xã, đổi mới sáng tạo, quản lý chuỗi giá trị – điều này chưa có ở các dự án nông nghiệp truyền thống, mở ra một thế hệ nông dân – doanh nhân trẻ, có kỹ năng đa ngành.
3. Đột phá về quy hoạch – nhà ở – an sinh xã hội
Mô hình tích hợp sản xuất – nhà ở – dịch vụ xã hội:
Thay vì tách rời, đề án gắn kết nông nghiệp bền vững với nhà ở và an sinh xã hội, đảm bảo đời sống ổn định cho người nông dân, thanh niên, đồng thời bảo vệ cảnh quan và đất nông nghiệp.
Nhà ở bền vững kết hợp tiện ích xã hội:
Thiết kế nhà ở hợp lý, kết hợp dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa, không gian cộng đồng – tạo môi trường sống và làm việc đồng bộ, nâng cao chất lượng sống vùng ngoại vi.
4. Đột phá về cơ chế và chính sách
Thí điểm mô hình quản trị vùng tích hợp:
Đề án đề xuất cơ chế vận hành hợp tác xã – doanh nghiệp – nhà nước – thanh niên, kết hợp chính sách đất đai, tín dụng, đào tạo và khuyến khích đổi mới sáng tạo. Đây là cách tiếp cận mới, vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế, vừa ổn định xã hội.
Kết nối với chính sách đổi mới sáng tạo và Nghị quyết 57:
Tích hợp chuyển đổi số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đổi mới sáng tạo trong sản xuất nông nghiệp – tạo tiền đề cho các vùng ngoại vi khác và mở rộng mô hình ra quy mô quốc gia.
5. Đột phá tổng thể
Mô hình đa ngành, liên kết và nhân rộng:
Kết hợp nông nghiệp, nhà ở, an sinh xã hội và phát triển thế hệ trẻ thành một mô hình thí điểm tổng thể, có thể đánh giá hiệu quả theo nhiều chỉ số (kinh tế, môi trường, xã hội, nhân lực) và nhân rộng ra các huyện ngoại vi khác.
Tạo giá trị kép:
Vừa bảo vệ và nâng cao năng suất nông nghiệp, vừa nâng cao đời sống, phát triển con người, đồng thời bảo vệ môi trường – điều mà các mô hình nông nghiệp truyền thống và các nghiên cứu trước chưa làm được đồng bộ. Sau khi nghiên cứu và triển khai thành công, đề án “Xây dựng vùng nông nghiệp ngoại vi TP.Hồ Chí Minh: mô hình nông nghiệp bền vững, an sinh và phát triển thế hệ trẻ” sẽ đóng góp rõ rệt cho tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của TP.HCM theo nhiều chiều, cụ thể như sau:
1. Đóng góp về kinh tế
Tăng giá trị nông sản và thu nhập nông dân:
Mô hình nông nghiệp bền vững, công nghệ cao và chuỗi giá trị kết nối trực tiếp với thị trường đô thị giúp nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị nông sản, từ đó tăng thu nhập và ổn định kinh tế cho người nông dân.
Thúc đẩy khởi nghiệp và tạo việc làm cho thanh niên:
Thanh niên tham gia quản trị hợp tác xã, khởi nghiệp nông nghiệp, dịch vụ hậu cần, chế biến thực phẩm và marketing – tạo việc làm, đa dạng hóa thu nhập và giảm áp lực thất nghiệp tại các vùng ngoại vi.
Huy động và tối ưu nguồn lực vùng ngoại vi:
Quy hoạch đồng bộ, kết hợp nông nghiệp – nhà ở – dịch vụ xã hội giúp khai thác hiệu quả đất đai, nhân lực, hạ tầng, góp phần tăng năng suất kinh tế tổng thể của TP.HCM.
2. Đóng góp về xã hội và an sinh
Ổn định dân cư và nâng cao đời sống:
Nhà ở bền vững, hạ tầng xã hội và dịch vụ y tế – giáo dục – văn hóa giúp ổn định dân cư, giảm di cư tự phát và cải thiện chất lượng sống cho người nông dân và thanh niên vùng ngoại vi.
Phát triển nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao:
Thanh niên được đào tạo kỹ năng công nghệ, quản lý, khởi nghiệp – trở thành lực lượng nòng cốt cho phát triển kinh tế vùng ngoại vi, đồng thời góp phần giải quyết vấn đề thiếu hụt nhân lực trẻ trong các ngành liên quan đến nông nghiệp, công nghệ, logistics và quản lý đô thị.
Tăng cường gắn kết cộng đồng:
Mô hình tích hợp nông nghiệp – nhà ở – dịch vụ xã hội tạo ra các cộng đồng bền vững, tăng tính đoàn kết, trách nhiệm xã hội, giảm bất bình đẳng và rủi ro xã hội.
3. Đóng góp về môi trường và phát triển bền vững
Bảo vệ đất nông nghiệp và cảnh quan ngoại vi:
Quy hoạch tích hợp, kết hợp nông nghiệp bền vững với cảnh quan xanh, hồ điều tiết, rừng chắn gió giúp duy trì môi trường sinh thái, phòng chống biến đổi khí hậu.
Nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên:
Áp dụng công nghệ quản lý nước, năng lượng và vật tư nông nghiệp, giảm lãng phí, bảo vệ môi trường và xây dựng vùng ngoại vi đô thị bền vững.
4. Đóng góp về quy hoạch và chiến lược vùng
Tạo mô hình mẫu cho các vùng ngoại vi đô thị:
Kết hợp quy hoạch sản xuất, nhà ở, hạ tầng xã hội và phát triển thanh niên – cung cấp mô hình tham khảo cho các huyện ngoại vi TP.HCM và các đô thị khác.
Hỗ trợ chính quyền trong hoạch định chính sách:
Cung cấp cơ sở khoa học – thực tiễn để điều chỉnh chính sách đất đai, nông nghiệp, an sinh xã hội, phát triển thanh niên và ứng dụng công nghệ số, phù hợp với Nghị quyết 57 và chiến lược phát triển TP.HCM. Kính gửi:
Ban Thường vụ Thành ủy TP.Hồ Chí Minh
Sở Khoa học & Công nghệ TP.Hồ Chí Minh
V/v: Trình bày đề án “Xây dựng vùng nông nghiệp ngoại vi TP.Hồ Chí Minh: mô hình nông nghiệp bền vững, an sinh và phát triển thế hệ trẻ” và đề nghị hỗ trợ triển khai
Kính thưa Quý Lãnh đạo,
Trong bối cảnh TP.Hồ Chí Minh đang chịu áp lực gia tăng dân số, đô thị hóa nhanh, biến đổi khí hậu và nhu cầu nâng cao đời sống, phát triển nguồn nhân lực trẻ, chúng tôi đề xuất thực hiện đề án: “Xây dựng vùng nông nghiệp ngoại vi TP.Hồ Chí Minh: mô hình nông nghiệp bền vững, an sinh và phát triển thế hệ trẻ” với mục tiêu:
Phát triển nông nghiệp bền vững tại vùng ngoại vi, ứng dụng công nghệ cao, bảo đảm năng suất, chất lượng nông sản và bảo vệ môi trường.
Tạo lập hệ sinh thái an sinh xã hội và nhà ở cho người nông dân và thanh niên, ổn định dân cư, nâng cao chất lượng sống.
Phát triển nguồn nhân lực trẻ, gắn đào tạo, khởi nghiệp và tham gia quản trị hợp tác xã, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong nông nghiệp.
Xây dựng mô hình thí điểm tích hợp, làm cơ sở cho việc nhân rộng ra toàn vùng ngoại vi TP.Hồ Chí Minh, kết hợp quy hoạch, sản xuất, an sinh và phát triển con người.
Đề án được xây dựng trên cơ sở:
Cơ sở thực tiễn: khảo sát vùng ngoại vi TP.HCM, đánh giá năng suất nông nghiệp, cơ sở hạ tầng xã hội, đời sống dân cư, xu hướng di cư và nhu cầu phát triển thanh niên.
Cơ sở khoa học: kết hợp nghiên cứu nông nghiệp bền vững, quản trị hợp tác xã, phát triển nhân lực trẻ, quy hoạch tích hợp và mô hình kinh tế xã hội đa ngành.
Cơ sở pháp lý: tuân thủ Luật Đất đai, Luật Hỗ trợ phát triển nông thôn, các chính sách về nhà ở xã hội, an sinh xã hội, đồng thời gắn với tinh thần Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đổi mới sáng tạo và phát triển TP.Hồ Chí Minh.
Với tính đột phá, sáng tạo và khả thi cao, đề án hứa hẹn:
Nâng cao giá trị kinh tế nông nghiệp, tạo chuỗi giá trị bền vững, việc làm cho thanh niên.
Ổn định dân cư, nâng cao an sinh xã hội, cải thiện chất lượng sống vùng ngoại vi.
Bảo vệ môi trường, cảnh quan và tài nguyên đất nông nghiệp.
Tạo mô hình thí điểm tích hợp, làm nền tảng chính sách và nhân rộng cho các vùng ngoại vi khác.
Kính đề nghị Quý Lãnh đạo:
Xem xét và đồng thuận cho việc triển khai nghiên cứu đề án trên.
Hỗ trợ về cơ chế, chính sách, nguồn lực và kết nối các đơn vị liên quan, để đề án được thực hiện hiệu quả, đóng góp trực tiếp cho phát triển kinh tế – xã hội TP.Hồ Chí Minh.
Chúng tôi cam kết sẽ triển khai đề án theo quy trình khoa học, minh bạch, đồng thời thường xuyên báo cáo kết quả và đề xuất chính sách hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự quan tâm và hỗ trợ của Quý Lãnh đạo.
Người đề xuất
Nhà ở và an sinh xã hội: đánh giá nhà ở hiện hữu, mức độ tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng xã hội.
Sản xuất nông nghiệp: diện tích, năng suất, loại cây trồng, hình thức canh tác, ứng dụng công nghệ, liên kết thị trường.
Thanh niên và lực lượng lao động nông thôn: cơ cấu tuổi, kỹ năng, nhu cầu đào tạo, xu hướng di cư.
2. Nghiên cứu quy hoạch vùng nông nghiệp ngoại vi
Xây dựng bản đồ quy hoạch sử dụng đất: phân vùng chức năng nông nghiệp – dân cư – dịch vụ – bảo vệ môi trường.
Tổ chức không gian nông nghiệp bền vững: khu sản xuất ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, khu sinh thái nông nghiệp, khu trải nghiệm giáo dục và khởi nghiệp cho thanh niên.
Liên kết với đô thị trung tâm: kết nối giao thông, logistics, thị trường tiêu thụ nông sản, dịch vụ tiện ích.
Tích hợp cảnh quan xanh, môi trường và phòng chống thiên tai: rừng chắn gió, hồ điều tiết, kênh rạch, vườn sinh thái.
3. Nghiên cứu mô hình nhà ở và an sinh xã hội
Nhà ở cho người nông dân và thanh niên: khảo sát nhu cầu, thiết kế nhà ở bền vững, giá cả phù hợp, kết hợp nhà ở xã hội, nhà ở công nhân nông nghiệp.
Cơ sở hạ tầng xã hội: trường học, trạm y tế, nhà văn hóa, khu vui chơi, không gian sáng tạo cho thanh niên.
Dịch vụ hỗ trợ sinh kế và an sinh: bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, tín dụng vi mô, dịch vụ tư vấn pháp lý và khởi nghiệp.
Định hướng phát triển cộng đồng: gắn kết nông dân – thanh niên – doanh nghiệp – chính quyền, tạo môi trường sống và làm việc đồng bộ, hài hòa.
4. Nghiên cứu mô hình nông nghiệp bền vững gắn với phát triển thanh niên
Sản xuất nông nghiệp xanh, hữu cơ, ứng dụng công nghệ: IoT, dữ liệu lớn, cảm biến, quản lý nước, phân bón hữu cơ.
Chuỗi giá trị sản phẩm: kết nối hợp tác xã – doanh nghiệp – thị trường, bao gồm chế biến, đóng gói, thương hiệu sản phẩm.
Đào tạo, huấn luyện và khởi nghiệp cho thanh niên: kỹ năng kỹ thuật nông nghiệp, quản lý hợp tác xã, kinh doanh nông sản, chuyển đổi số.
Cơ chế quản trị, liên kết và đổi mới sáng tạo: thiết lập hợp tác xã nông nghiệp trẻ, mạng lưới khởi nghiệp, chương trình hỗ trợ vốn và công nghệ.
5. Nghiên cứu chính sách và cơ chế phát triển bền vững
Pháp lý và chính sách đất đai: quyền sử dụng đất, chuyển đổi đất nông nghiệp, ưu đãi đất cho mô hình thí điểm.
Chính sách hỗ trợ nông dân và thanh niên: tín dụng, đào tạo, nhà ở, an sinh xã hội, bảo hiểm, khuyến khích đổi mới sáng tạo.
Cơ chế vận hành mô hình: quản trị hợp tác xã, quản lý sản xuất – dịch vụ – nhà ở – hạ tầng xã hội, giám sát hiệu quả mô hình.
Liên kết với chính sách quốc gia và Nghị quyết 57: chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học công nghệ trong nông nghiệp.
6. Thí điểm và đánh giá
Lựa chọn vùng thí điểm: 1–2 huyện xã ngoại vi TP.HCM, phù hợp điều kiện đất đai, cơ sở hạ tầng, lực lượng thanh niên.
Triển khai mô hình tích hợp: nông nghiệp bền vững + nhà ở + an sinh xã hội + phát triển thanh niên.
Đánh giá kết quả: về năng suất, thu nhập, chỉ số bền vững môi trường, mức độ an sinh xã hội, kỹ năng và cơ hội phát triển thanh niên.
Rút kinh nghiệm và nhân rộng: đề xuất phương án mở rộng, hoàn thiện chính sách và mô hình, làm cơ sở nhân rộng sang các vùng ngoại vi khác. 1. Nguyên tắc và mục tiêu thí điểm
Nguyên tắc:
Triển khai mô hình tích hợp: nông nghiệp bền vững + nhà ở + dịch vụ xã hội + phát triển thanh niên.
Áp dụng cơ chế PPP để huy động nguồn lực tư nhân, giảm gánh nặng ngân sách nhà nước.
Kết hợp đổi mới sáng tạo, ứng dụng KHCN theo Luật KHCN, tinh thần Nghị quyết 57.
Thí điểm có đo lường kết quả, minh bạch, khả năng nhân rộng.
Mục tiêu:
Xây dựng mô hình mẫu, chứng minh khả năng kinh tế – xã hội – môi trường.
Đánh giá hiệu quả PPP trong phát triển nông nghiệp vùng ngoại vi.
Tạo cơ sở pháp lý, chính sách và hướng dẫn nhân rộng toàn TP.HCM. 2. Lựa chọn vị trí thí điểm
Tiêu chí lựa chọn:
Vùng ngoại vi TP.HCM có đất nông nghiệp còn khai thác, dân cư ổn định hoặc có thanh niên sẵn sàng tham gia.
Gần cơ sở hạ tầng giao thông, dịch vụ công (trường học, trạm y tế).
Chính quyền xã ủng hộ triển khai thí điểm, sẵn sàng phối hợp cơ chế PPP.
Gợi ý:
Xã A (ví dụ Nhơn Trạch, Đồng Nai): có quỹ đất nông nghiệp lớn, kết nối với TP.HCM qua đường cao tốc, dân cư trẻ, hợp tác xã hiện hữu.
Xã B (ví dụ Long Thành, Đồng Nai hoặc huyện Cần Giờ): đất nông nghiệp, có vùng ven đô cần phát triển bền vững, thuận tiện xây dựng mô hình thí điểm kết hợp nhà ở – nông nghiệp. 3. Giải pháp PPP và cơ chế triển khai
Cơ chế PPP áp dụng:
Hình thức hợp đồng BOT/BTO/BT: doanh nghiệp đầu tư xây dựng hạ tầng nông nghiệp, nhà ở, dịch vụ xã hội, sau đó khai thác trong thời gian hợp đồng, chia sẻ rủi ro với Nhà nước.
Nhà nước: cung cấp đất, cơ chế hỗ trợ thủ tục hành chính, ưu đãi về tín dụng, thuế, hạ tầng cơ bản. 1. Quy mô thử nghiệm và tính chất thí điểm
Đề án thí điểm “Xây dựng vùng nông nghiệp ngoại vi TP.Hồ Chí Minh: mô hình nông nghiệp bền vững, an sinh và phát triển thế hệ trẻ” sẽ được triển khai với quy mô khoảng 30–50 ha đất tại một hoặc hai xã ngoại vi, điển hình như Nhơn Trạch hoặc Long Thành. Vùng thí điểm bao gồm khoảng 50–100 hộ nông dân và thanh niên tham gia trực tiếp vào sản xuất, quản trị hợp tác xã, đào tạo và khởi nghiệp. Một khu nhà ở mẫu gồm 50–100 căn, kết hợp trường học, trạm y tế, khu sinh hoạt cộng đồng sẽ được xây dựng để đảm bảo an sinh xã hội. Ngoài ra, một trung tâm thí điểm KHCN và đào tạo sẽ được lập ra, tích hợp công nghệ quản lý nông nghiệp, đào tạo thanh niên và thử nghiệm chuỗi giá trị nông sản.
Tính chất của thí điểm tập trung vào việc tích hợp liên ngành, vừa phát triển nông nghiệp bền vững, vừa đảm bảo nhà ở, dịch vụ xã hội và phát triển nguồn nhân lực trẻ. Mô hình triển khai theo cơ chế PPP, doanh nghiệp đầu tư vốn và công nghệ, Nhà nước hỗ trợ về đất đai, chính sách và hạ tầng, trong khi cộng đồng và thanh niên tham gia trực tiếp vào sản xuất và quản trị. Đồng thời, thí điểm áp dụng công nghệ số, IoT, quản lý dữ liệu và kỹ thuật canh tác tiên tiến, phù hợp với Luật KHCN, tinh thần Nghị quyết 57 và Nghị quyết 68.
Để đánh giá hiệu quả, đề án xây dựng các KPI cụ thể theo bốn trụ cột chính:
Kinh tế: thu nhập bình quân hộ nông dân tăng ≥30%, giá trị sản phẩm nông nghiệp/ha tăng ≥25%, doanh thu từ chuỗi giá trị ổn định sau 2 năm.
Xã hội và an sinh: ≥90% hộ dân có nhà ở mẫu đạt chuẩn, ≥80% hộ tiếp cận đầy đủ dịch vụ y tế, giáo dục, ≥70% thanh niên tham gia đào tạo và khởi nghiệp.
Môi trường: ≥50% diện tích thử nghiệm canh tác hữu cơ, tiết kiệm ≥20% nước và năng lượng so với canh tác truyền thống, bảo vệ diện tích xanh và cảnh quan.
Nhân lực và đổi mới sáng tạo: 100% thanh niên tham gia tối thiểu một khóa đào tạo KHCN, triển khai ≥5 dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong 2 năm, tăng hiệu quả quản trị hợp tác xã ≥15%.
Đánh giá sẽ thực hiện theo giai đoạn, 6 tháng đến 1 năm để điều chỉnh ban đầu và 2 năm để đánh giá toàn diện. Dữ liệu sẽ được thu thập từ khảo sát thực địa, báo cáo hợp tác xã, hệ thống IoT, kết hợp với khảo sát ý kiến hộ dân. Kết quả được báo cáo minh bạch để rút kinh nghiệm và hoàn thiện mô hình.
Phương án nhân rộng sẽ được triển khai khi KPI thí điểm đạt hoặc vượt mục tiêu. Các xã/huyện tiếp theo sẽ được lựa chọn dựa trên tiêu chí đất nông nghiệp khả thi, dân cư trẻ, kết nối hạ tầng thuận lợi. Mô hình PPP sẽ được sao chép, doanh nghiệp – Nhà nước – cộng đồng tiếp tục hợp tác, đồng thời áp dụng các giải pháp công nghệ, chia sẻ dữ liệu, đào tạo nhân lực từ thí điểm sang vùng mới. Định kỳ đánh giá KPI so với vùng thí điểm để điều chỉnh mô hình, đảm bảo nhân rộng hiệu quả và bền vững.
Mục tiêu cốt lõi của thí điểm là: nâng cao giá trị kinh tế nông sản, ổn định dân cư, phát triển nhân lực trẻ, bảo vệ môi trường và cảnh quan, đồng thời tạo ra mô hình pháp lý – cơ chế PPP – đổi mới sáng tạo, làm cơ sở triển khai nhân rộng toàn TP.Hồ Chí Minh.
Doanh nghiệp: đầu tư vốn, triển khai công nghệ, quản lý mô hình, đảm bảo hiệu quả kinh tế và xã hội.
Cộng đồng – thanh niên: tham gia lao động, đào tạo kỹ năng, quản lý hợp tác xã, khởi nghiệp. 4. Ứng dụng Luật KHCN – đổi mới sáng tạo
Thí điểm áp dụng công nghệ số, IoT, quản lý dữ liệu nông nghiệp để tối ưu năng suất, quản lý tài nguyên, đảm bảo sản phẩm sạch, minh bạch.
Hỗ trợ nghiên cứu – thử nghiệm giống mới, kỹ thuật canh tác tiên tiến thông qua hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu.
Thúc đẩy mô hình “trung tâm đổi mới sáng tạo nông nghiệp” tại khu thí điểm, đào tạo thanh niên, kết nối khởi nghiệp. 5. Tinh thần Nghị quyết 57 và Nghị quyết 68
NQ 57: đổi mới sáng tạo, phát triển hệ sinh thái đổi mới, phát triển nhân lực chất lượng cao → áp dụng trong đào tạo, quản lý hợp tác xã, ứng dụng công nghệ số.
NQ 68: chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học – công nghệ → doanh nghiệp tham gia PPP có thể hưởng ưu đãi về thuế, tín dụng, đầu tư KHCN. 6. Quy trình triển khai thí điểm
Chuẩn bị:
Khảo sát thực trạng đất đai, dân cư, cơ sở hạ tầng
Lập hồ sơ đề xuất PPP, phê duyệt từ UBND huyện và Sở KH&CN.
Xác định doanh nghiệp đối tác, ký hợp đồng PPP.
Thiết kế mô hình tích hợp:
Quy hoạch nông nghiệp bền vững (vườn mẫu, ao hồ, trang trại).
Nhà ở và dịch vụ xã hội (trường học, trạm y tế, khu vui chơi).
Trung tâm đào tạo thanh niên, quản lý dữ liệu và công nghệ.
Triển khai:
Doanh nghiệp đầu tư xây dựng, Nhà nước hỗ trợ hạ tầng, pháp lý.
Thanh niên tham gia đào tạo, sản xuất, khởi nghiệp.
Ứng dụng KHCN, IoT, dữ liệu chuỗi giá trị.
Đánh giá và nhân rộng:
Theo dõi hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường, phát triển thanh niên.
Lập báo cáo tổng kết, rút kinh nghiệm.
Nhân rộng mô hình sang các xã, huyện ngoại vi khác. 7. Cơ chế hỗ trợ cần thiết
Về pháp lý: rút gọn thủ tục phê duyệt PPP, hỗ trợ cơ chế thí điểm đất đai, cơ chế ưu đãi thuế – tín dụng.
Về tài chính – đầu tư: hỗ trợ vốn nhà nước cho nghiên cứu thử nghiệm, ưu tiên vay vốn chính sách.
Về tổ chức – quản lý: thành lập Ban điều phối thí điểm tại huyện – xã, kết nối Sở KH&CN, UBND huyện, doanh nghiệp và các tổ chức đào tạo.
Về khoa học – công nghệ: cho phép thử nghiệm công nghệ mới, đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp, theo tinh thần NQ 57, NQ 68. Triển khai thí điểm theo mô hình này sẽ tạo một “vùng mẫu” về nông nghiệp bền vững, nhà ở – an sinh – phát triển thanh niên, chứng minh hiệu quả PPP, áp dụng KHCN đổi mới sáng tạo và tạo cơ sở nhân rộng trên toàn TP.HCM. Đây là hướng đi bám sát thực tiễn, khả thi về kinh tế – xã hội – pháp lý. Mô hình vùng nông nghiệp ngoại vi TP.Hồ Chí Minh có thể trở thành một điển hình đa nhiệm trong việc ứng dụng Nghị quyết 57 và Luật KHCN – Đổi mới sáng tạo 2025 vì các lý do sau:
1. Tích hợp nhiều trụ cột phát triển
Nông nghiệp bền vững: áp dụng công nghệ cao, canh tác hữu cơ, quản lý dữ liệu và IoT, tạo ra sản phẩm nông nghiệp sạch, chất lượng cao, tăng năng suất và giá trị kinh tế.
Nhà ở và an sinh xã hội: xây dựng khu nhà ở mẫu, trường học, trạm y tế, khu sinh hoạt cộng đồng, đảm bảo đời sống ổn định cho người dân và thanh niên.
Phát triển nguồn nhân lực trẻ: đào tạo kỹ năng, quản lý hợp tác xã, khởi nghiệp, ứng dụng công nghệ số, tạo lực lượng lao động chất lượng cao cho vùng ngoại vi.
Điều này phản ánh đúng tinh thần đa nhiệm, vừa phát triển kinh tế, vừa đảm bảo xã hội và nhân lực, gắn kết chặt chẽ với Nghị quyết 57 về đổi mới sáng tạo và phát triển TP.Hồ Chí Minh.
2. Áp dụng cơ chế pháp lý và đổi mới sáng tạo
Luật KHCN và Đổi mới sáng tạo 2025 cho phép thử nghiệm công nghệ mới, cơ chế hợp tác công – tư (PPP), hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN và tổ chức nghiên cứu.
Mô hình thí điểm có thể ứng dụng trực tiếp các cơ chế ưu đãi này:
Thử nghiệm giống mới, kỹ thuật canh tác tiên tiến.
Ứng dụng hệ thống quản lý dữ liệu, IoT nông nghiệp.
Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ hỗ trợ.
Nhờ đó, mô hình trở thành nền tảng thực tiễn để kiểm chứng hiệu quả của luật và nghị quyết, đồng thời làm cơ sở nhân rộng cho toàn TP.HCM.
3. Khả năng nhân rộng và đo lường
Thiết kế mô hình với KPI rõ ràng, khả thi theo 4 trụ cột: kinh tế, xã hội, môi trường, nhân lực.
Đánh giá và nhân rộng dựa trên dữ liệu thực tế: năng suất, thu nhập, mức độ ứng dụng KHCN, số thanh niên tham gia khởi nghiệp.
Khi thành công, mô hình có thể nhân rộng sang các xã và huyện ngoại vi khác, tạo hệ thống thí điểm chuẩn, đồng bộ với chiến lược đổi mới sáng tạo và ứng dụng KHCN tại TP.HCM.
Như vậy, mô hình này vừa tích hợp nhiều mục tiêu phát triển, vừa ứng dụng cơ chế pháp lý đổi mới sáng tạo, vừa có khả năng nhân rộng và đo lường hiệu quả, làm cho nó trở thành một điển hình đa nhiệm. Đây là cách triển khai Nghị quyết 57 và Luật KHCN 2025 vào thực tiễn, đồng thời đóng góp trực tiếp vào phát triển kinh tế – xã hội bền vững của TP.Hồ Chí Minh.
#
Người gửi: TRƯƠNG NAM THUẬN Thời gian gửi: 01/11/2025
Quy chế 03-QC/BCĐTW năm 2025 tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị, sáng kiến, giải pháp phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia do Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ban hành
#Chính sách phát triển và ứng dụng công nghệ mới, công nghệ tiên tiến (dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật, chuỗi khối,…)
Người gửi: Nguyễn Phi Long Thời gian gửi: 29/10/2025
KÍNH GỬI:
Ban Thường vụ Thành ủy TP.HCM
V/v: Kiến nghị ban hành Nghị quyết thí điểm giao quyền cho tư nhân xử lý các vấn đề trọng điểm đô thị TP.HCM
I. Bối cảnh và nhận định thực tiễn
TP.HCM đang đối mặt với bốn nhóm vấn đề trọng điểm:
Kẹt xe – tác động đến năng suất lao động, chi phí xã hội, chất lượng cuộc sống.
Ô nhiễm môi trường – không khí, nước, rác thải, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng.
Ngập lụt đô thị – ảnh hưởng đến giao thông, kinh tế và đời sống dân cư.
Tội phạm và an ninh trật tự – làm giảm cảm giác an toàn, cản trở phát triển kinh tế – xã hội.
Mặc dù TP.HCM có lực lượng tri thức, chuyên gia, và các cơ quan quản lý chuyên môn, nhưng 5 điểm nghẽn chính đang cản trở hiệu quả giải quyết các vấn đề này:
Cơ chế quản lý tập trung và quan liêu – quyết định qua nhiều cấp, thủ tục phức tạp, sáng kiến bị đình trệ.
Vai trò tư nhân hạn chế – các doanh nghiệp, startup công nghệ và chuyên gia chỉ tham gia tư vấn, không được giao quyền triển khai thực địa.
Phối hợp liên ngành yếu – sở ngành vận hành cục bộ, chưa có cơ chế tổng thể chịu trách nhiệm chung.
Động lực và cơ chế khuyến khích kém – cán bộ và chuyên gia thiếu cơ chế khuyến khích gắn với kết quả thực tế, e ngại rủi ro.
Dữ liệu, công cụ và quyền thử nghiệm hạn chế – dữ liệu phân tán, quyền thí điểm chưa rõ ràng, công nghệ chưa được ứng dụng thực tế.
Các hạn chế này là khách quan, tồn tại lâu dài, có tác động rõ rệt và đáng lưu tâm, khiến TP.HCM chưa khai thác được nguồn lực sáng tạo và công nghệ vượt trội của khu vực tư nhân, dẫn đến các giải pháp đô thị vẫn chậm, chưa đồng bộ và chi phí xã hội cao.
II. Cơ sở pháp lý
Nghị quyết 57-NQ/TW (Bộ Chính trị):
Khuyến khích nhà nước kiến tạo, hỗ trợ tư nhân, tạo điều kiện cho thử nghiệm, đổi mới sáng tạo.
Nghị quyết 68-NQ/TW (Bộ Chính trị):
Nhấn mạnh vai trò kinh tế tư nhân, tri thức và sáng tạo trong phát triển đô thị và kinh tế – xã hội.
Các luật liên quan:
Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Giao thông đường bộ: tạo khung pháp lý cho thử nghiệm, ứng dụng công nghệ, triển khai dự án thí điểm.
Tuy nhiên, các nghị quyết và luật trên chưa đi vào cấu trúc vận hành của TP.HCM, chưa hình thành cơ chế thí điểm để trao quyền, phối hợp, khuyến khích và giám sát cho tư nhân và chuyên gia.
III. Đề xuất giải pháp
1. Ban hành Nghị quyết thí điểm của Thành ủy
Mục tiêu: triệt để giao quyền cho tư nhân và chuyên gia, cơ quan nhà nước chỉ hỗ trợ theo yêu cầu.
Trưởng ban: đồng chí Bí thư Thành ủy, chịu trách nhiệm tổng thể.
Ban hỗ trợ liên sở ngành: Giám đốc các sở chủ chốt, Thường trực UBND, hỗ trợ thủ tục, dữ liệu, hạ tầng.
2. Nguyên tắc và tiêu chí thí điểm
Nguyên tắc:
Tư nhân tự chủ nghiên cứu và triển khai giải pháp; nhà nước hỗ trợ, giám sát.
Thí điểm trên diện nhỏ, có đánh giá hiệu quả trước khi nhân rộng.
Quyết định liên ngành nhanh, minh bạch, giảm thủ tục quan liêu.
Tiêu chí đánh giá:
Tác động thực tế đến vấn đề đô thị.
Khả năng nhân rộng và bền vững.
Chi phí – lợi ích và hiệu quả xã hội.
3. Quy trình triển khai thí điểm
Giai đoạn 1 (0–6 tháng):
Công bố cuộc thi ý tưởng giải quyết bốn nhóm vấn đề trọng điểm.
Chuẩn hóa dữ liệu, hạ tầng thí điểm, cơ chế giám sát.
Giai đoạn 2 (6–12 tháng):
Chọn nhóm thắng cuộc, triển khai thí điểm thực địa.
Cán bộ liên sở ngành hỗ trợ, tháo gỡ vướng mắc tức thời.
Giai đoạn 3 (12–18 tháng):
Nhân rộng giải pháp thành công trên toàn TP.
Thiết lập cơ chế vận hành dài hạn, chuyển từ thí điểm sang cơ chế chính thức.
4. Động lực và cơ chế bảo vệ
Thiết lập khen thưởng, hợp đồng triển khai dự án, quyền khai thác thương mại giải pháp cho tư nhân.
Bảo vệ trách nhiệm pháp lý cho cán bộ, chuyên gia trong phạm vi thí điểm được phê duyệt.
Việc ban hành Nghị quyết thí điểm theo cơ chế giao quyền triệt để cho tư nhân sẽ:
Giải quyết nhanh các vấn đề đô thị trọng điểm, giảm nghẽn quản lý;
Tận dụng tri thức và công nghệ vượt trội của khu vực tư nhân;
Thay đổi triệt để cách làm, từ “quản lý cứng nhắc” sang hỗ trợ theo yêu cầu và thí điểm sáng tạo.
Kính đề nghị Thành ủy TP.HCM xem xét, phê duyệt và chỉ đạo khẩn trương ban hành Nghị quyết thí điểm nêu trên, để TP.HCM trở thành điển hình về quản trị đô thị đổi mới sáng tạo, phối hợp công – tư hiệu quả và xử lý các vấn đề phức tạp. I. Hạn chế và tính cục bộ của các sở ngànhTính cục bộ trong phạm vi quản lýMỗi sở ngành tại TP.HCM hiện nay vận hành theo trách nhiệm hẹp, phạm vi quản lý rõ ràng:Sở Giao thông quản lý đường bộ, cầu, giao thông công cộng.Sở Xây dựng quản lý hạ tầng, quy hoạch xây dựng, cấp phép xây dựng.Sở Tài nguyên – Môi trường quản lý chất lượng môi trường, rác thải, nước, đất đai.Công an TP quản lý an ninh trật tự.Hậu quả: Khi vấn đề đô thị liên ngành (ví dụ: ngập lụt liên quan đến giao thông, thoát nước, quy hoạch đất đai), không sở nào chịu trách nhiệm tổng thể, giải pháp bị cắt rời, thiếu đồng bộ.Tập trung vào thủ tục hơn là kết quảNhiều sở ngành còn ưu tiên quy trình, hồ sơ, báo cáo hành chính hơn là thử nghiệm và triển khai giải pháp sáng tạo.Ví dụ: startup muốn thử nghiệm hệ thống dự báo ùn tắc theo AI phải xin phép nhiều cấp, nộp báo cáo liên sở, dẫn đến giải pháp khoa học chưa thể triển khai thực tế.Phối hợp liên ngành còn hình thứcCó các ban liên sở, hội đồng thẩm định liên ngành, nhưng chưa thực sự chịu trách nhiệm triển khai, không có quyền quyết định giải pháp liên ngành.Khi gặp xung đột lợi ích hoặc kỹ thuật, không ai chịu giải quyết triệt để, dẫn đến dự án đình trệ hoặc phải điều chỉnh nhiều lần.II. Năng lực hiện nay của các sở ngành với đổi mới sáng tạoƯu điểmSở ngành có kiến thức chuyên môn sâu, kinh nghiệm quản lý hành chính, hiểu rõ cơ chế nhà nước, pháp luật, quy trình đầu tư.Có khả năng kiểm soát rủi ro pháp lý và an ninh trật tự, đảm bảo các dự án triển khai đúng quy định.Hạn chế trong đổi mới sáng tạoThiếu cơ chế linh hoạt để thử nghiệm giải pháp mới: mọi sáng kiến đều phải tuân thủ quy trình cứng nhắc.Chậm tiếp cận công nghệ mới: các giải pháp AI, IoT, dữ liệu lớn, blockchain… chưa được tích hợp vào quy trình vận hành.Động lực đổi mới hạn chế: KPI và cơ chế đánh giá tập trung vào hồ sơ, báo cáo, số liệu hành chính, không gắn với hiệu quả thực tế, tác động xã hội, tính bền vững.III. Giải pháp và kinh nghiệm của kinh tế tư nhân đã vượt tầm sở ngànhĐặc điểm của tư nhân và startupNhanh nhạy, linh hoạt, thử nghiệm liên tục: các doanh nghiệp công nghệ, startup có khả năng phát triển và thử nghiệm giải pháp mới chỉ trong vài tuần – vài tháng.Ứng dụng công nghệ cao: AI dự báo giao thông, cảm biến IoT đo môi trường, hệ thống giám sát trực tuyến an ninh…Sáng tạo theo nhu cầu thực tế: tư nhân trực tiếp khảo sát, đo đạc và phân tích dữ liệu để đưa ra giải pháp có tác động ngay.Vượt tầm năng lực hiện tại của sở ngànhThời gian triển khai nhanh hơn: ví dụ một startup có thể lắp đặt cảm biến giao thông trong 2–3 nút giao thông, thử nghiệm dự báo ùn tắc trong vài tuần, trong khi sở ngành cần thủ tục nhiều tháng để phê duyệt dự án.Tích hợp dữ liệu đa nguồn: các giải pháp tư nhân có thể kết nối dữ liệu giao thông, môi trường, hạ tầng đô thị theo thời gian thực, điều mà sở ngành hiện nay chưa làm được do dữ liệu phân tán và ràng buộc pháp lý.Khả năng nhân rộng và tối ưu chi phí: tư nhân sẵn sàng thử nghiệm nhiều mô hình, tối ưu giải pháp dựa trên phản hồi nhanh, trong khi sở ngành triển khai theo quy trình cứng nhắc, ít thử nghiệm.1. Điểm nghẽn về cơ chế quản lý tập trung và quan liêuThực trạng:Quyết định về các giải pháp quan trọng đều tập trung tại UBND TP.HCM hoặc các sở ngành, theo mô hình hành chính kiểu “tập trung – duyệt vòng”.Mỗi sáng kiến phải qua nhiều cấp phê duyệt: từ phòng ban → sở → UBND → thành phố → Bộ liên quan, dẫn đến trễ hạn, mất cơ hội triển khai ngay.Cơ sở thực tiễn:Các dự án giao thông thông minh hay hạ tầng chống ngập từng được các chuyên gia đề xuất nhiều lần nhưng chậm trễ cả chục năm vì vướng cơ chế thẩm định liên ngành và thủ tục đầu tư công.Ví dụ: TP.HCM đã có dự án chống ngập theo mô hình “hệ thống bể chứa nước thông minh”, nhưng mãi đến khi ngập trở thành khủng hoảng thì dự án mới được phê duyệt thí điểm.Hệ quả:Năng lực sáng tạo của chuyên gia không được hiện thực hóa.Các giải pháp khoa học – công nghệ trở thành ý tưởng trên giấy, không tạo ra tác động xã hội thực tế.2. Điểm nghẽn về vai trò của tư nhân và thị trường tri thứcThực trạng:Tư nhân và các tổ chức khoa học – công nghệ chủ yếu bị yêu cầu tư vấn hoặc cung cấp dự án theo hợp đồng, nhưng không được trao quyền triển khai hoặc thí điểm giải pháp.Nhà nước vẫn giữ quyền quyết định cuối cùng, dẫn đến việc các giải pháp mới, sáng tạo không được thử nghiệm trên thực địa.Cơ sở thực tiễn:Doanh nghiệp công nghệ trong nước đã phát triển hệ thống dữ liệu giao thông, ứng dụng trí tuệ nhân tạo dự báo ùn tắc, nhưng không được triển khai thực tế do thiếu cơ chế giao quyền thử nghiệm tại các nút giao quan trọng.Các startup công nghệ môi trường có giải pháp giám sát ô nhiễm theo thời gian thực nhưng không được phép vận hành trực tiếp tại các khu công nghiệp và khu dân cư đông đúc.Hệ quả:Lực lượng tư nhân, tri thức có khả năng nhưng không thể hiện năng lực thực tiễn, dẫn tới sự lãng phí tài nguyên tri thức.3. Điểm nghẽn về phối hợp liên ngànhThực trạng:Các vấn đề đô thị là đa chiều, nhưng TP.HCM vận hành theo mô hình “silo” – mỗi sở ngành hoạt động độc lập, thiếu cơ chế tổng thể để giải quyết vấn đề liên ngành.Khi vấn đề chồng chéo, không ai chịu trách nhiệm tổng thể, dẫn tới xung đột giải pháp.Cơ sở thực tiễn:Ngập lụt và kẹt xe liên quan mật thiết đến hạ tầng thoát nước, quy hoạch đường, quản lý đất đai. Nhưng sở giao thông, sở xây dựng, sở tài nguyên môi trường mỗi nơi chỉ quản lý phạm vi riêng, không có ban liên ngành thực sự chịu trách nhiệm tổng thể.Nhiều sáng kiến về “đường chống ngập thông minh” hoặc “cầu vượt giảm tắc” bị đình trệ vì một sở phản đối giải pháp do không nằm trong thẩm quyền.Hệ quả:Chậm trễ trong triển khai giải pháp tổng thể.Các sáng kiến tốt về kỹ thuật hoặc dữ liệu không được nhân rộng4. Điểm nghẽn về động lực và cơ chế khuyến khíchThực trạng:Cán bộ, chuyên gia được đánh giá theo chuẩn hành chính, KPI hành chính, không gắn trực tiếp với hiệu quả thực tiễn.Sáng kiến hoặc giải pháp thử nghiệm luôn tiềm ẩn rủi ro trách nhiệm, dẫn tới tâm lý e ngại mạo hiểm.Cơ sở thực tiễn:Các chuyên gia muốn thử nghiệm giải pháp giám sát ô nhiễm nước hoặc không khí tại sông Sài Gòn – kênh rạch nội đô – phải đối mặt với thủ tục hành chính phức tạp, báo cáo liên sở, xin giấy phép vận hành thiết bị, và nguy cơ bị phạt nếu xảy ra sai sót, khiến họ không dám triển khai.Tình trạng “giải pháp tồn trên giấy” xuất hiện liên tục trong các báo cáo khoa học, đề án thành phố, báo cáo nghiên cứu mà không tạo ra hành động thực tế.Hệ quả:Tinh thần đổi mới sáng tạo bị kìm hãm.Lực lượng tri thức trở nên thụ động, dẫn tới hiệu quả quản lý đô thị thấp.5. Điểm nghẽn về dữ liệu, công cụ và quyền thử nghiệmThực trạng:Nhiều chuyên gia giỏi, nhưng không có quyền truy cập đầy đủ dữ liệu đô thị, thiếu hạ tầng thử nghiệm, hoặc bị hạn chế quyền triển khai các giải pháp công nghệ thực tế.Dữ liệu phân tán, không chuẩn hóa, khó dùng để mô phỏng, dự báo hay thử nghiệm.Cơ sở thực tiễn:Hệ thống dữ liệu giao thông, môi trường, thoát nước, an ninh ở TP.HCM phân tán giữa các sở: Giao thông – Xây dựng – Tài nguyên – Công an; dữ liệu không đồng bộ, thiếu cập nhật theo thời gian thực.Một startup muốn triển khai mô hình “dự báo ngập lụt theo AI” cần dữ liệu mưa, nước sông, thoát nước đô thị… nhưng không được cấp quyền truy cập hoặc bị yêu cầu ký nhiều cam kết phức tạp, khiến giải pháp không triển khai được.Hệ quả:Tri thức và sáng kiến không thể chuyển hóa thành hành động;TP.HCM không tận dụng được đầy đủ lực lượng chuyên gia, công nghệ và dữ liệu.1. Nguyên nhân tồn tại của 5 điểm nghẽn1.1. Cơ chế quản lý tập trung và quan liêuLý do sâu xa:Bộ máy TP.HCM kế thừa mô hình hành chính kiểu tập trung từ nhiều thập kỷ, ưu tiên quy trình, kiểm soát, tránh rủi ro hơn là hiệu quả và sáng tạo.Thủ tục duyệt, cấp phép, triển khai dự án được thiết kế cho quản lý rủi ro và trách nhiệm pháp lý, không phải cho tốc độ và linh hoạt.Tại sao chưa khắc phục:Thay đổi cơ chế phân quyền yêu cầu thay đổi pháp lý, cơ cấu tổ chức, trách nhiệm của lãnh đạo.Lãnh đạo cấp cao e ngại rủi ro khi giao quyền mạnh cho tư nhân và chuyên gia, vì sai sót có thể bị truyền thông và chính quyền xử lý.1.2. Vai trò tư nhân và thị trường tri thức hạn chếLý do sâu xa:Truyền thống quản lý vẫn coi tư nhân là thực hiện hoặc hỗ trợ, không phải là đồng chủ thể trong giải quyết vấn đề công.Quy định pháp luật và các hợp đồng hiện hành chưa thiết lập cơ chế “trao quyền thử nghiệm, thí điểm và chịu trách nhiệm kết quả” cho tư nhân.Tại sao chưa khắc phục:Luật hiện hành và hướng dẫn vẫn chưa chuyển cơ chế từ “tư vấn – thực hiện theo lệnh nhà nước” sang “tư nhân tự chủ – nhà nước hỗ trợ”.Sự chuyển đổi này cần thí điểm, giám sát và đánh giá – chưa có cơ chế chính thức để áp dụng đồng loạt.1.3. Phối hợp liên ngành yếuLý do sâu xa:TP.HCM vận hành theo mô hình “sở ngành độc lập”, văn hóa hành chính quen với trách nhiệm hẹp, phạm vi sở hữu rõ ràng.Khi vấn đề liên ngành, không có cơ chế tổng thể chịu trách nhiệm chung, dẫn đến xung đột và trì trệ.Tại sao chưa khắc phục:Việc thiết lập ban liên ngành có quyền hạn thật sự cần thay đổi quy chế, phân công, và văn hóa phối hợp.Những cơ chế tổng thể hiện nay, dù có nghị quyết, vẫn mang tính “hướng dẫn” chứ không phải trao quyền thực thi liên ngành với trách nhiệm rõ ràng.1.4. Động lực và cơ chế khuyến khích kémLý do sâu xa:Bộ máy hành chính đánh giá cán bộ theo KPI hành chính, trình tự, báo cáo, không gắn với tác động thực tế tới đời sống người dân.Văn hóa e ngại rủi ro làm sáng kiến mới khó triển khai, dẫn đến tâm lý thụ động.Tại sao chưa khắc phục:Thay đổi cơ chế đánh giá đòi hỏi cả hệ thống chính sách lương, thưởng, trách nhiệm, không thể một sở hay một lãnh đạo thay đổi riêng lẻ.Nghị quyết 57 và 68 tạo khung tổng thể, nhưng chưa được chuyển hóa thành KPI, cơ chế thưởng phạt cho từng vị trí trong bộ máy TP.HCM.1.5. Dữ liệu, công cụ và quyền thử nghiệm hạn chếLý do sâu xa:Dữ liệu đô thị phân tán, nhiều cơ quan quản lý khác nhau; việc chia sẻ dữ liệu vẫn bị ràng buộc bởi luật, quy chế bảo mật và sợ trách nhiệm.Thiếu cơ chế chính thức để trao quyền thử nghiệm giải pháp công nghệ trên thực địa.Tại sao chưa khắc phục:Các nghị quyết và luật mới (57, 68, Luật KHCN, Luật Đầu tư) chỉ tạo khung tổng thể, chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện chi tiết, cơ chế vận hành tại địa phương.Việc vận hành cơ sở dữ liệu liên ngành đòi hỏi đầu tư hạ tầng, chuẩn hóa dữ liệu, quy trình quản lý rủi ro – chưa được TP.HCM triển khai đồng bộ.2. Tại sao tinh thần nghị quyết 57, 68 và các luật mới chưa đi vào cấu trúc vận hành của TP.HCMThiếu cơ chế triển khai thực chất:Nghị quyết 57, 68 đề cao tư nhân, đổi mới sáng tạo, cơ chế thí điểm, nhưng TP.HCM chưa xây dựng ban chỉ đạo, cơ chế thí điểm, cơ chế trao quyền cho tư nhân và chuyên gia để biến nghị quyết thành hành động cụ thể.Văn hóa quản trị chưa thay đổi:Bộ máy quen với mô hình “kiểm soát và duyệt cấp trên”, khó chấp nhận cơ chế tư nhân tự chủ, nhà nước hỗ trợ, thí điểm mở.Thiếu cơ chế phối hợp và trách nhiệm liên ngành:Nghị quyết mới chưa gắn với sơ đồ vận hành mới, phân quyền rõ ràng cho ban liên sở, ngành và chuyên gia, nên chưa tạo ra quy trình hành động thực tế, liên ngành.Thiếu cơ chế khuyến khích và quản trị rủi ro:Lực lượng chuyên gia, tư nhân vẫn lo trách nhiệm pháp lý và thiếu động lực vật chất – xã hội để thử nghiệm sáng kiến.Thiếu cơ chế chuyển hóa dữ liệu và tri thức thành hành động:Các luật mới chưa được triển khai kèm theo công cụ vận hành, chuẩn hóa dữ liệu, quyền thử nghiệm, khiến tri thức khoa học và công nghệ chưa đi vào thực tế.5 điểm nghẽn tồn tại không phải vì thiếu năng lực hay tri thức, mà vì cơ chế, văn hóa quản trị, phân quyền và động lực chưa thay đổi.Nghị quyết 57, 68 và các luật mới cung cấp khung pháp lý và tinh thần, nhưng chưa đi vào cấu trúc vận hành, chưa tạo ra cơ chế “trao quyền + thí điểm + hỗ trợ nhà nước” cho tư nhân và chuyên gia.Để giải quyết, TP.HCM cần thí điểm cơ chế mới, giao quyền thực thi cho tư nhân và chuyên gia, nhà nước chỉ hỗ trợ theo yêu cầu, giám sát hiệu quả và nhân rộng giải pháp thành công.I. Cơ sở thực tiễn1. Cơ chế quản lý tập trung và quan liêuThực tế:Các dự án giao thông, chống ngập, xử lý ô nhiễm và phòng chống tội phạm đều phải qua nhiều cấp phê duyệt từ sở ngành đến UBND và Thành ủy.Nhiều sáng kiến tốt như: hệ thống bể chứa nước thông minh, mô hình giao thông thông minh, giám sát ô nhiễm theo thời gian thực… bị đình trệ nhiều năm vì thủ tục quan liêu.Tác động:Giải pháp khoa học không được triển khai, mất cơ hội giảm thiểu tác động tiêu cực từ các vấn đề đô thị.Chậm trễ giải quyết kẹt xe, ngập lụt, ô nhiễm, khiến chi phí xã hội, kinh tế và môi trường tăng cao.2. Vai trò tư nhân hạn chếThực tế:Startup và doanh nghiệp công nghệ có giải pháp giao thông, môi trường, an ninh nhưng không được trao quyền triển khai thực địa, chỉ tham gia tư vấn.Ví dụ: các giải pháp trí tuệ nhân tạo dự báo ùn tắc giao thông hoặc giám sát nước thải công nghiệp vẫn tồn tại trên giấy, chưa ứng dụng rộng rãi.Tác động:Tri thức và năng lực sáng tạo bị kìm hãm, TP.HCM không khai thác được nguồn lực tư nhân, dẫn tới năng lực xử lý vấn đề đô thị thấp.3. Phối hợp liên ngành yếuThực tế:Ngập lụt và giao thông liên quan mật thiết đến hạ tầng, quy hoạch, thoát nước, môi trường. Tuy nhiên các sở: Giao thông, Xây dựng, Tài nguyên – Môi trường hoạt động độc lập, thiếu cơ chế tổng thể.Nhiều sáng kiến bị đình trệ vì sở này phản đối, sở kia thiếu trách nhiệm phối hợp.Tác động:Giải pháp không đồng bộ, xung đột kỹ thuật và chính sách.Vấn đề đô thị trở nên phức tạp, chi phí tăng và mất thời gian giải quyết.4. Động lực và cơ chế khuyến khích kémThực tế:Cán bộ, chuyên gia được đánh giá theo KPI hành chính, báo cáo, không gắn với hiệu quả thực tế.Hầu hết giải pháp sáng tạo không được khuyến khích triển khai, hoặc e ngại rủi ro pháp lý, gây tâm lý thụ động.Tác động:Sáng kiến tồn trên giấy, không triển khai thực tế.Chuyên gia, tư nhân thiếu động lực tham gia giải quyết vấn đề đô thị.5. Dữ liệu, công cụ và quyền thử nghiệm hạn chếThực tế:Dữ liệu giao thông, môi trường, thoát nước, an ninh phân tán, chuẩn hóa kém, cập nhật không đồng bộ.Quyền thử nghiệm giải pháp công nghệ chưa rõ ràng; thử nghiệm trên thực địa phải xin phép nhiều cơ quan, rủi ro cao.Tác động:Tri thức khoa học, công nghệ chưa được ứng dụng thực tế.Giải pháp đô thị thông minh bị hạn chế, năng lực giải quyết vấn đề thấp.=> Như vậy, 5 điểm nghẽn trên tồn tại khách quan, được minh chứng qua các dự án, sáng kiến, giải pháp đô thị chưa triển khai hoặc trì trệ nhiều năm, có tác động thực tế, đáng lưu tâm.II. Cơ sở pháp lýNghị quyết 57-NQ/TW (Bộ Chính trị:Cho phép nhà nước kiến tạo, hỗ trợ, tạo điều kiện cho tư nhân, tổ chức xã hội thử nghiệm, sáng tạo giải pháp.Thúc đẩy tháo gỡ vướng mắc pháp lý, giảm điểm nghẽn quản lý hành chính.Nghị quyết 68-NQ/TW (Bộ Chính trị :Nhấn mạnh vai trò kinh tế tư nhân, thị trường tri thức và sáng tạo trong phát triển đô thị và kinh tế – xã hội.Giao cơ chế thí điểm, thử nghiệm, khen thưởng minh bạch cho tư nhân.Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Giao thông đường bộ:Tạo khung pháp lý cho ứng dụng công nghệ, triển khai dự án thí điểm, thử nghiệm giải pháp sáng tạo.Tuy nhiên, chưa có hướng dẫn chi tiết về cơ chế giao quyền trực tiếp cho tư nhân và thí điểm liên ngành.=> Như vậy, các nghị quyết và luật mới có tinh thần tháo gỡ điểm nghẽn, nhưng chưa đi vào vận hành thực tế tại TP.HCM.III. Cơ sở lý luậnNguyên tắc quản trị hiện đại (Modern Governance):Hiệu quả quản trị dựa trên phân quyền, phối hợp liên ngành và trao quyền thử nghiệm cho các chủ thể ngoài nhà nước.Cơ chế tập trung quan liêu thường tạo ra nghẽn quản lý, trì trệ sáng kiến và giảm hiệu quả chính sách.Nguyên tắc phát triển đô thị bền vững:Các vấn đề đô thị phức tạp đòi hỏi giải pháp đa chiều, dựa trên tri thức khoa học và tư nhân, không thể chỉ dựa vào bộ máy nhà nước.Kinh nghiệm quốc tế điển hình:Các thành phố như Singapore, Seoul, Tokyo triển khai thí điểm giao quyền cho tư nhân trong giao thông, môi trường, an ninh, có cơ chế giám sát, dữ liệu mở và khuyến khích sáng tạo.Kết quả: Giảm ùn tắc, giảm ô nhiễm, tăng tính chủ động và sáng tạo, rút ngắn thời gian triển khai giải pháp.**=> Như vậy, lý luận quản trị đô thị hiện đại và kinh nghiệm quốc tế xác nhận rằng 5 điểm nghẽn là khách quan, tồn tại, ảnh hưởng thực tiễn và phải được tháo gỡ bằng cơ chế giao quyền – thí điểm – hỗ trợ nhà nướcĐiểm nghẽn cốt lõi là cơ chế chứ không phải năng lực tri thứcCác sở ngành TP.HCM có chuyên môn, kinh nghiệm và quyền lực hành chính, nhưng cơ chế quản lý cứng nhắc, silo hóa, phối hợp hình thức khiến họ không theo kịp tốc độ đổi mới sáng tạo.Kinh tế tư nhân và tri thức vượt tầm sở ngànhCác doanh nghiệp, tổ chức khoa học công nghệ có khả năng thử nghiệm, sáng tạo và triển khai giải pháp nhanh hơn, linh hoạt hơn, ứng dụng công nghệ mới, nhưng chưa được giao quyền thực thi thực tế.Từ thực tiễn tới kiến nghịCần xây dựng cơ chế thí điểm, trao quyền cho tư nhân và chuyên gia, trong đó sở ngành chỉ hỗ trợ theo yêu cầu và giám sát kết quả, để tận dụng tri thức và công nghệ vượt trội của khu vực tư nhân, xử lý kịp thời các vấn đề đô thị phức tạp. Tổng kết và mục tiêu của đề xuất
1. Mục tiêu tổng thể
Khơi thông các điểm nghẽn cốt lõi trong vận hành đô thị TP.HCM: kẹt xe, ô nhiễm, ngập lụt và tội phạm.
Khai thác tối đa nguồn lực tư nhân, tri thức và công nghệ, tạo cơ chế thí điểm thử nghiệm giải pháp sáng tạo.
Thay đổi triệt để cách làm của bộ máy hành chính: từ quản lý cứng nhắc sang hỗ trợ theo yêu cầu, giám sát kết quả, khuyến khích sáng tạo.
Đặt TP.HCM thành điển hình quản trị đô thị đổi mới sáng tạo, có khả năng nhân rộng mô hình ra các thành phố khác.
2. Mục tiêu cụ thể
Xây dựng cơ chế thí điểm giao quyền triệt để cho tư nhân và chuyên gia trong nghiên cứu, thử nghiệm và triển khai giải pháp đô thị.
Thiết lập tiêu chí, nguyên tắc và quy trình minh bạch cho cả tư nhân và cơ quan nhà nước tham gia, đảm bảo hiệu quả và bền vững.
Tạo môi trường thử nghiệm nhanh, đánh giá thực tiễn, nhân rộng hiệu quả, thay vì chờ đợi quy trình hành chính truyền thống.
Khuyến khích sáng tạo, ứng dụng công nghệ cao, phân tích dữ liệu đô thị và thử nghiệm các mô hình quản trị mới.
Cách thực hiện để khai phá các điểm nghẽn
Ban hành Nghị quyết thí điểm của Thành ủy
Đồng chí Bí thư Thành ủy làm Trưởng ban, chịu trách nhiệm tổng thể.
Ban hỗ trợ liên sở ngành: Giám đốc các sở chủ chốt, Thường trực UBND, chỉ hỗ trợ theo yêu cầu, tháo gỡ thủ tục, dữ liệu, hạ tầng.
Sử dụng công cụ triệt để cho tư nhân và chuyên gia
Cuộc thi sáng kiến: thu hút ý tưởng, giải pháp từ tư nhân và chuyên gia.
Cơ chế thí điểm: giao quyền triển khai giải pháp trực tiếp, nhà nước giám sát kết quả, không quản lý chi tiết.
Hạ tầng dữ liệu và thử nghiệm: cung cấp dữ liệu giao thông, môi trường, an ninh; khu vực thí điểm thực địa, hệ thống đo đạc và quan trắc.
Công cụ khuyến khích và bảo vệ: hợp đồng triển khai, quyền khai thác giải pháp, khen thưởng, bảo vệ trách nhiệm pháp lý.
Phối hợp liên ngành minh bạch
Mỗi nhóm thí điểm có cán bộ liên sở ngành trực tiếp hỗ trợ, đảm bảo giải pháp đồng bộ, tháo gỡ xung đột kỹ thuật và chính sách.
Đánh giá và nhân rộng
Giai đoạn 1: thử nghiệm trên diện nhỏ, đánh giá hiệu quả, chi phí, tác động xã hội.
Giai đoạn 2: điều chỉnh và mở rộng các giải pháp thành công.
Giai đoạn 3: triển khai chính thức trên toàn TP, hình thành cơ chế vận hành bền vững.
Kết luận
Việc thực hiện đề xuất này sẽ khai phá các điểm nghẽn tồn tại lâu nay, tạo ra môi trường đô thị thông minh, linh hoạt và sáng tạo.
TP.HCM sẽ trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo trong quản trị đô thị, tận dụng tri thức, công nghệ và năng lực tư nhân để giải quyết các vấn đề phức tạp.
Cách làm này thay đổi triệt để vai trò của nhà nước: từ quản lý chi tiết sang hỗ trợ theo yêu cầu và giám sát kết quả, đồng thời tạo cơ chế thí điểm minh bạch, hiệu quả và nhân rộng.
=> Mục tiêu cuối cùng: TP.HCM phát triển đô thị bền vững, hiệu quả, linh hoạt, với năng lực ứng phó nhanh, sáng tạo và khả năng nhân rộng mô hình quản trị tiên tiến. 1. Áp lực đổi mới và sáng tạo
TP.HCM đang đối mặt với bốn vấn đề cấp bách: kẹt xe, ô nhiễm, ngập lụt, tội phạm.
Giải pháp hiện đại đòi hỏi đổi mới sáng tạo, công nghệ cao, dữ liệu lớn, và khả năng triển khai nhanh – điều mà bộ máy công quyền hiện nay khó đáp ứng do cơ chế quan liêu, cục bộ và thủ tục kéo dài.
2. Nhu cầu bức xúc và kỳ vọng xã hội
Người dân, doanh nghiệp và nhà đầu tư mong muốn giải pháp nhanh, hiệu quả, minh bạch.
Nếu chậm trễ, TP.HCM sẽ mất cơ hội khai thác tiềm năng kinh tế, giảm năng lực cạnh tranh, tụt hậu so với các đô thị trong khu vực và quốc tế.
3. Vai trò quyết tâm chính trị
Trao quyền thực sự cho tư nhân, chuyên gia, startup là bước cần thiết để giải phóng sáng kiến và năng lực.
Chỉ có quyết tâm chính trị cao nhất, từ Bí thư Thành ủy và Ban Thường vụ, mới:
Xây dựng cơ chế thí điểm mạnh mẽ, minh bạch;
Cho phép thử nghiệm và triển khai giải pháp vượt trội;
Tháo gỡ ràng buộc hành chính, phối hợp liên ngành triệt để.
4. Hệ quả nếu không hành động
Dựa vào năng lực hiện nay của bộ máy hành chính, TP.HCM sẽ:
Giải quyết chậm, thủ tục rườm rà;
Bỏ lỡ cơ hội ứng dụng công nghệ và tri thức tư nhân;
Các vấn đề đô thị ngày càng phức tạp, chi phí xã hội tăng;
Năng lực cạnh tranh, phát triển đô thị bị tụt hậu so với các thành phố tiên tiến trong khu vực.
=> Kết luận: Nếu không có quyết tâm chính trị cao và cơ chế giao quyền mạnh mẽ, TP.HCM khó bứt phá, các vấn đề trọng điểm sẽ tiếp tục tồn tại, đô thị sẽ tụt hậu so với nhu cầu phát triển và so với chuẩn mực quốc tế.
#
Người gửi: TRƯƠNG NAM THUẬN Thời gian gửi: 29/10/2025
Cán bộ được phân công phụ trách công nghệ thông tin, chuyển đổi số cơ yếu của bên đảng ủy xã có được hưởng chế độ theo nghị định 179 không? Nếu được thì cần những điều kiện cụ thể nào? Đề nghị có văn bản hướng dẫn chi tiết
#Cơ chế phát triển nguồn nhân lực cho KH, CN, ĐMST và CĐSQG
Người gửi: Nguyễn Thị Bích Trâm Thời gian gửi: 29/10/2025
Cần tập huấn các chính sách cụ thể hơn
#Chính sách phát triển và ứng dụng công nghệ mới, công nghệ tiên tiến (dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật, chuỗi khối,…)
Người gửi: Trương Thị Kim Xanh Thời gian gửi: 28/10/2025
Kính gửi: Văn phòng Trung ương Đảng
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, ngày 30/12/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 179/2025/NĐ-CP về chế độ hỗ trợ đối với người làm công tác chuyên trách chuyển đổi số tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Theo Điều 1 của Nghị định 179/2025/NĐ-CP đã quy định rõ đối tượng áp dụng bao gồm: “Nghị định này quy định về mức hỗ trợ đối với người làm công tác chuyên trách về chuyển đổi số, an toàn thông tin mạng, an ninh mạng trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, ...” Điều này khẳng định người làm công tác chuyên trách chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng là đối tượng được hưởng chế độ hỗ trợ theo Nghị định này.
Về phía Chính quyền: Hiện tại, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư 23/2025/TT-BKHCN hướng dẫn chi tiết về việc thực hiện chế độ hỗ trợ cho người làm công tác chuyên trách chuyển đổi số trong các cơ quan nhà nước (khối chính quyền) theo Nghị định 179/2025/NĐ-CP. Theo thông tin nắm được, cán bộ chuyên trách chuyển đổi số thuộc khối chính quyền đã được hướng dẫn chi hỗ trợ mức 5.000.000 đồng/người/tháng theo đúng quy định.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, bên khối Đảng chưa ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết về quy trình, thủ tục, nguồn kinh phí và mức chi cụ thể để áp dụng chế độ hỗ trợ này đối với người làm công tác chuyên trách chuyển đổi số tại các cơ quan Đảng từ cấp Trung ương đến cơ sở.
Việc chậm trễ này đang gây ra một số khó khăn:
1. Chưa thống nhất: Người làm công tác chuyên trách chuyển đổi số bên Đảng chưa được hưởng chế độ hỗ trợ, dẫn đến sự khác biệt và chưa đồng bộ so với khối Chính quyền.
2. Khó khăn trong triển khai: Việc thiếu hướng dẫn cụ thể khiến các cấp ủy, cơ quan Đảng lúng túng, không có cơ sở pháp lý để thực hiện chi hỗ trợ, ảnh hưởng đến tinh thần và sự chủ động của đội ngũ cán bộ này.
Đề xuất và Kiến nghị
Để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho đội ngũ cán bộ chuyên trách, tạo động lực mạnh mẽ cho công cuộc chuyển đổi số trong toàn hệ thống chính trị và thực hiện nghiêm túc tinh thần của Nghị định số 179/2025/NĐ-CP, tôi trân trọng đề nghị:
Văn phòng Trung ương Đảng xem xét, sớm ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết về việc thực hiện chế độ hỗ trợ đối với người làm công tác chuyên trách chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng.
Kính mong Văn phòng Trung ương Đảng quan tâm, xem xét và sớm có chỉ đạo, hướng dẫn để các cơ quan Đảng kịp thời triển khai thực hiện.
Trân trọng cảm ơn!
#Thể chế, pháp luật và chính sách hỗ trợ trong KH, CN, ĐMST và CĐSQG
Người gửi: Nguyễn Văn Minh Thời gian gửi: 28/10/2025
Lý do và sự cần thiết phải tổ chức thi tuyển giải pháp phát triển TOD và Metro tuyến số 2
1. Bối cảnh chiến lược của TP.HCM
Tuyến Metro số 2 (Bến Thành – Tham Lương) là một trong những trục giao thông chiến lược quan trọng nhất của TP.HCM, đóng vai trò xương sống kết nối trung tâm thành phố với các khu vực phía Tây và các đô thị vệ tinh, góp phần giảm ùn tắc, cải thiện chất lượng môi trường, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng sống cho người dân.
Tuyến Metro số 2 không chỉ là dự án giao thông mà còn là công cụ định hướng phát triển TOD (Transit-Oriented Development), tạo nên các khu vực đô thị đa chức năng, kết nối bền vững giữa giao thông, thương mại, dịch vụ, không gian công cộng và cộng đồng dân cư.
Hiện nay, quá trình triển khai tuyến Metro số 2 đang gặp phải một số thách thức quan trọng:
Thiếu liên kết liên ngành: Quy hoạch, kiến trúc, chính sách, tài chính và nhu cầu cộng đồng chưa được tích hợp thành một chiến lược tổng thể, dẫn đến các giải pháp hiện nay còn rời rạc, chưa đồng bộ.
Nguồn lực tri thức chưa được huy động tối đa: Các ý tưởng, sáng kiến từ chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp và cộng đồng chưa được khai thác, hạn chế khả năng đột phá trong tư duy quy hoạch.
Khả năng đổi mới sáng tạo còn hạn chế: Cơ chế hiện hành chưa đủ mở để thử nghiệm các mô hình mới, chưa tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân và các cá nhân có năng lực tham gia trực tiếp vào phát triển đô thị và giao thông công cộng. 2. Lý do tổ chức thi tuyển giải pháp
Huy động trí tuệ đa chiều
Việc tổ chức cuộc thi mở các giải pháp TOD và Metro tuyến số 2 sẽ huy động nguồn lực tri thức rộng khắp, bao gồm: chuyên gia, nhà khoa học, kiến trúc sư, nhà quy hoạch, doanh nhân, start-up và cộng đồng dân cư. Đây là cách khai thác tối đa sáng kiến, tạo ra các giải pháp khả thi, bền vững và mang tính đột phá, đáp ứng yêu cầu phát triển đô thị hiện đại.
Thúc đẩy đổi mới thể chế và sáng tạo
Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị nhấn mạnh đổi mới thể chế, khuyến khích thử nghiệm cơ chế, huy động sáng kiến, tạo môi trường phát triển bền vững cho tri thức và nhà khoa học.
Cuộc thi sẽ là công cụ cụ thể để triển khai nghị quyết, tạo cơ chế thử nghiệm, phát hiện và nhân rộng các giải pháp sáng tạo trong phát triển đô thị và giao thông công cộng.
Huy động và thúc đẩy kinh tế tư nhân tham gia phát triển đô thị
Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị khẳng định kinh tế tư nhân là trung tâm, Nhà nước cần tạo cơ chế thuận lợi để doanh nghiệp tham gia các dự án chiến lược.
Cuộc thi sẽ mở ra cơ hội cho doanh nghiệp tư nhân, start-up và các tổ chức nghiên cứu đóng góp giải pháp TOD, đồng thời tuân thủ cơ chế minh bạch, cạnh tranh công bằng. 3. Sự cần thiết thực tiễn
Tuyến Metro số 2 là trục chiến lược kết nối các khu đô thị, trung tâm thương mại, công nghiệp và các khu dân cư. Việc phát triển tuyến này không chỉ là giao thông mà còn là định hướng TOD tổng thể, cần đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế, môi trường, hạ tầng và tiện ích công cộng.
Cuộc thi ý tưởng mở sẽ là cơ chế tối ưu để:
Huy động nguồn lực tri thức – chuyên gia – cộng đồng.
Thử nghiệm các cơ chế, chính sách và giải pháp tài chính, quy hoạch – kiến trúc theo hướng minh bạch, khả thi, đồng bộ.
Tạo đột phá trong tư duy quy hoạch, thiết kế đô thị, giao thông công cộng và TOD.
Thúc đẩy sự tham gia của kinh tế tư nhân, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, góp phần tăng hiệu quả và tính bền vững của dự án. Cơ sở pháp lý
Hiến pháp 2013 và Luật Quy hoạch đô thị 2023
Hiến pháp và Luật Quy hoạch đô thị 2023 khẳng định quyền tham gia của cộng đồng, doanh nghiệp và chuyên gia trong phát triển đô thị, đồng thời yêu cầu các dự án hạ tầng trọng điểm phải đảm bảo minh bạch, công khai và khả thi.
Điều 3, Luật Quy hoạch đô thị 2023 nêu rõ: việc lập quy hoạch phải “bảo đảm sự tham gia của cộng đồng, tổ chức, doanh nghiệp và chuyên gia”, từ đó nâng cao chất lượng quyết định và sự đồng thuận xã hội.
Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị (Ngày 22/12/2024)
Nhấn mạnh đổi mới thể chế, thúc đẩy sáng tạo và chuyển đổi số là động lực phát triển quan trọng.
Khuyến khích thử nghiệm cơ chế, huy động sáng kiến và tri thức của cộng đồng, nhà khoa học, doanh nghiệp để xây dựng các mô hình phát triển đô thị và hạ tầng hiện đại, khả thi.
Việc tổ chức thi tuyển ý tưởng phù hợp với tinh thần: “Nhà nước dẫn dắt – cộng đồng và doanh nghiệp tham gia – thử nghiệm, đánh giá và nhân rộng các mô hình mới.”
Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị (Ngày 4/5/2025)
Khẳng định kinh tế tư nhân là trung tâm, là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, đồng thời Nhà nước cần tạo cơ chế thuận lợi để doanh nghiệp tham gia vào các dự án chiến lược.
Cuộc thi mở sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp tư nhân, start-up, các tổ chức nghiên cứu đóng góp giải pháp TOD và Metro, tuân thủ cơ chế minh bạch, cạnh tranh công bằng, đồng thời hỗ trợ phát triển bền vững hạ tầng đô thị.
Các quy chuẩn kỹ thuật và hướng dẫn về Metro, TOD và đô thị thông minh
Cung cấp các tiêu chuẩn về thiết kế, kết nối giao thông, quy hoạch đô thị và tiện ích công cộng, làm cơ sở đánh giá các ý tưởng dự thi một cách khách quan, khả thi và đồng bộ. Cơ sở lý luận
Phát triển TOD (Transit-Oriented Development) là xu hướng toàn cầu
TOD là mô hình đô thị tập trung quanh các trạm giao thông công cộng, kết hợp giao thông, thương mại, dịch vụ, văn hóa, tiện ích công cộng và cộng đồng dân cư.
Lý luận TOD nhấn mạnh: sự kết hợp giữa hạ tầng giao thông và quy hoạch đô thị sẽ tạo ra các khu vực đa chức năng, giảm ùn tắc, tăng tính bền vững và cải thiện chất lượng sống.
Thi tuyển ý tưởng là cơ chế thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong đô thị và hạ tầng
Lý luận quản trị đô thị hiện đại cho thấy: việc huy động tri thức đa chiều, thử nghiệm giải pháp mới và đánh giá minh bạch sẽ nâng cao hiệu quả đầu tư, giảm rủi ro và tăng tính khả thi của dự án.
Các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore đã áp dụng mô hình thi tuyển ý tưởng TOD và giao thông công cộng, mang lại giải pháp thiết kế sáng tạo, đồng bộ và phù hợp thực tiễn.
Huy động kinh tế tư nhân và tri thức chuyên gia là yêu cầu phát triển bền vững
Theo lý luận kinh tế đô thị và Nghị quyết 68, doanh nghiệp tư nhân là trung tâm sáng tạo và nguồn lực đầu tư.
Kết hợp tri thức chuyên gia, kinh nghiệm quốc tế và sự tham gia của cộng đồng sẽ tạo ra giải pháp TOD khả thi, bền vững và mang tính đột phá, đồng thời nâng cao đồng thuận xã hội và hiệu quả thực thi. Căn cứ vào quy định pháp lý hiện hành, Nghị quyết 57 và 68 cùng lý luận TOD và quản trị đô thị hiện đại, việc tổ chức thi tuyển giải pháp phát triển TOD và Metro tuyến số 2 là:
Phù hợp pháp lý, đảm bảo minh bạch, công khai và quyền tham gia của cộng đồng, doanh nghiệp, chuyên gia.
Hợp lý về lý luận, tạo điều kiện thử nghiệm, phát hiện giải pháp sáng tạo, kết hợp hạ tầng, đô thị và kinh tế tư nhân.
Cần thiết về thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả, tính khả thi, đồng bộ và bền vững cho dự án Metro số 2. Mục tiêu và kết quả kỳ vọng của cuộc thi ý tưởng phát triển TOD và Metro tuyến số 2
1. Chủ đề: Cơ chế – Chính sách
Mục tiêu:
Xây dựng và thử nghiệm các cơ chế, chính sách đột phá nhằm thúc đẩy việc triển khai TOD gắn với Metro số 2.
Tìm kiếm cơ chế khuyến khích hợp tác giữa Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng, tạo môi trường minh bạch, cạnh tranh công bằng, khuyến khích sáng tạo.
Đề xuất các cơ chế ràng buộc pháp lý, cơ chế vận hành, quản trị dự án và phân quyền rõ ràng, nhằm giảm vướng mắc hành chính, đẩy nhanh tiến độ thực hiện.
Kết quả kỳ vọng:
Bộ khung cơ chế chính sách minh bạch, khả thi, có thể thử nghiệm trước khi áp dụng đại trà.
Các đề xuất về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng được chuẩn hóa, đảm bảo đồng bộ, hiệu quả, dễ triển khai thực tế.
Xác định các điểm nghẽn pháp lý và cơ chế, đề xuất giải pháp tháo gỡ trước khi triển khai dự án. 2. Chủ đề: Tài chính – Nguồn lực
Mục tiêu:
Huy động các nguồn lực tài chính đa dạng, bao gồm ngân sách Nhà nước, vốn tư nhân, đầu tư xã hội, quỹ đổi mới sáng tạo.
Đề xuất các cơ chế tài chính đột phá, như: cơ chế PPP (đối tác công – tư), quỹ phát triển TOD, các ưu đãi thuế, huy động vốn từ cộng đồng và doanh nghiệp.
Xây dựng mô hình tài chính bền vững, minh bạch, có khả năng nhân rộng, đảm bảo Metro số 2 và các khu TOD đi kèm vừa khả thi về kỹ thuật, vừa khả thi về tài chính.
Kết quả kỳ vọng:
Hình thành các phương án tài chính linh hoạt, tối ưu chi phí đầu tư, có khả năng triển khai nhanh và đảm bảo tính bền vững.
Xác định các mô hình huy động vốn tư nhân và xã hội, gắn với cơ chế quản lý, giám sát hiệu quả.
Cung cấp cơ sở dữ liệu tài chính để so sánh, đánh giá và lựa chọn mô hình tốt nhất, đảm bảo các ý tưởng được lựa chọn không chỉ khả thi về kỹ thuật mà còn khả thi về nguồn lực. 3. Chủ đề: Quy hoạch – Kiến trúc
Mục tiêu:
Phát triển các giải pháp quy hoạch đô thị, kiến trúc TOD sáng tạo, đồng bộ, đảm bảo kết nối giao thông, dịch vụ, thương mại, tiện ích công cộng và không gian sống.
Thử nghiệm các mô hình đa chức năng, linh hoạt, thích ứng với biến đổi dân số, môi trường và nhu cầu cộng đồng.
Tích hợp công nghệ thông minh, dữ liệu đô thị và hạ tầng xanh, tạo các khu đô thị bền vững, hài hòa giữa phát triển kinh tế – xã hội và môi trường.
Kết quả kỳ vọng:
Hình thành các phương án quy hoạch – kiến trúc đột phá, khả thi, khả năng nhân rộng cho các tuyến Metro tương lai.
Đề xuất các mô hình TOD gắn với Metro số 2, tối ưu hóa không gian công cộng, giảm ùn tắc, tăng giá trị bất động sản và tiện ích cho cộng đồng.
Cung cấp bộ tiêu chí đánh giá thiết kế đô thị và hạ tầng minh bạch, phục vụ cho việc lựa chọn, triển khai và nhân rộng giải pháp. 4. Chủ đề: Cộng đồng – Tham vấn
Mục tiêu:
Huy động ý kiến cộng đồng, người dân, tổ chức xã hội, nhằm đảm bảo các giải pháp TOD và Metro số 2 phù hợp với nhu cầu thực tế, tạo sự đồng thuận và ủng hộ xã hội.
Tạo cơ chế tham vấn minh bạch, liên tục và đa chiều, từ giai đoạn ý tưởng đến giai đoạn triển khai.
Thúc đẩy văn hóa đô thị bền vững, ý thức cộng đồng, và sự tham gia của các nhóm lợi ích đa dạng vào quá trình quy hoạch, thiết kế và vận hành.
Kết quả kỳ vọng:
Đề xuất các cơ chế tham vấn cộng đồng chuyên nghiệp, minh bạch, dễ thực hiện, bảo đảm mọi ý kiến được ghi nhận, đánh giá và phản hồi.
Tăng cường sự đồng thuận xã hội, giảm xung đột, tạo lòng tin giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.
Hình thành mô hình tương tác liên tục giữa cộng đồng và cơ quan quản lý đô thị, phục vụ triển khai hiệu quả các dự án TOD và Metro trong dài hạn. Cuộc thi ý tưởng phát triển TOD và Metro tuyến số 2 được tổ chức theo tư duy đa ngành, đa lĩnh vực:
Tích hợp cơ chế – chính sách, tài chính – nguồn lực, quy hoạch – kiến trúc, cộng đồng – tham vấn trong cùng một khung thi tuyển.
Đột phá trong cách tổ chức: không chỉ là thi thiết kế kiến trúc hay quy hoạch, mà còn thử nghiệm cơ chế, huy động tri thức, doanh nghiệp, cộng đồng, tạo ra một mô hình toàn diện, khả thi và bền vững.
Kết quả là các giải pháp đột phá, minh bạch, khả thi và đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển đô thị thông minh, bền vững, và có thể nhân rộng cho các tuyến Metro và TOD tiếp theo. Sự đột phá của cuộc thi ý tưởng TOD và Metro tuyến số 2
1. Đột phá về tư duy thể chế và cơ chế quản lý
Điểm nghẽn hiện nay:
Các cơ chế hiện hành trong phát triển đô thị, hạ tầng và Metro còn rời rạc, chồng chéo, quan liêu, khiến dự án kéo dài, khó huy động sáng kiến bên ngoài.
Quy trình ra quyết định chậm, ít thử nghiệm cơ chế mới, dẫn đến thiếu cơ hội đổi mới, sáng tạo.
Đột phá từ cuộc thi:
Thử nghiệm cơ chế mở, minh bạch, có thể điều chỉnh linh hoạt, tạo môi trường thử nghiệm các cơ chế phối hợp Nhà nước – doanh nghiệp – cộng đồng.
Tích hợp các giải pháp pháp lý, chính sách, cơ chế vận hành, từ đó rút ngắn thời gian ra quyết định, giảm xung đột hành chính. 2. Đột phá về huy động nguồn lực tri thức và kinh tế tư nhân
Điểm nghẽn hiện nay:
Ý tưởng từ chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp tư nhân chưa được khai thác, dẫn đến thiếu sáng kiến mới, giải pháp khả thi về công nghệ, tài chính và quy hoạch.
Nguồn lực tài chính phân tán, không tối ưu, dựa chủ yếu vào ngân sách Nhà nước, thiếu cơ chế huy động tư nhân.
Đột phá từ cuộc thi:
Huy động nguồn lực tri thức đa ngành, từ quy hoạch, kiến trúc, quản lý đô thị, tài chính đến cộng đồng, tạo ra giải pháp toàn diện, khả thi và sáng tạo.
Thiết lập cơ chế kết nối doanh nghiệp tư nhân với dự án Metro và TOD, bao gồm các mô hình PPP, quỹ sáng tạo đô thị, huy động vốn xã hội, từ đó tăng khả năng tài chính bền vững và hiệu quả đầu tư. 3. Đột phá về quy hoạch đô thị và thiết kế TOD
Điểm nghẽn hiện nay:
Quy hoạch đô thị chưa đồng bộ với hạ tầng giao thông công cộng, dẫn đến Metro chưa phát huy tối đa hiệu quả, các khu dân cư thiếu kết nối, tiện ích công cộng chưa tối ưu.
Thiết kế đô thị chưa gắn tận dụng không gian công cộng, thương mại, dịch vụ và cộng đồng dân cư, chưa hướng đến đô thị thông minh, bền vững.
Đột phá từ cuộc thi:
Hình thành các mô hình TOD đồng bộ với Metro, tích hợp giao thông, dịch vụ, thương mại, văn hóa, không gian xanh, tiện ích công cộng.
Thử nghiệm các giải pháp kiến trúc và quy hoạch linh hoạt, thích ứng với biến đổi dân số và môi trường, tăng giá trị đất đai, giảm ùn tắc, nâng cao chất lượng sống. 4. Đột phá về tham vấn cộng đồng và đồng thuận xã hội
Điểm nghẽn hiện nay:
Thiếu cơ chế tham vấn minh bạch, liên tục; người dân và cộng đồng chưa được tích cực tham gia vào quá trình quy hoạch và triển khai dự án.
Điều này dẫn đến xung đột lợi ích, chậm tiến độ, thiếu đồng thuận và khó đảm bảo hiệu quả xã hội của dự án.
Đột phá từ cuộc thi:
Xây dựng cơ chế tham vấn đa chiều, liên tục và minh bạch, từ giai đoạn ý tưởng đến triển khai.
Đảm bảo ý kiến cộng đồng, doanh nghiệp, tổ chức xã hội được ghi nhận và phản hồi, tạo sự đồng thuận cao, giảm rủi ro xung đột lợi ích. 5. Tác động tổng thể và đột phá chiến lược
Tích hợp đa ngành: Thiết kế cuộc thi không chỉ tập trung kiến trúc hay quy hoạch mà bao gồm cơ chế – chính sách, tài chính – nguồn lực, quy hoạch – kiến trúc, cộng đồng – tham vấn, phá vỡ cách tiếp cận rời rạc hiện nay.
Tạo mô hình thử nghiệm và nhân rộng: Các giải pháp xuất sắc từ cuộc thi có thể thử nghiệm trước, điều chỉnh và nhân rộng cho các tuyến Metro tiếp theo, hoặc các khu TOD khác, tạo hiệu ứng đột phá toàn vùng đô thị.
Đột phá tư duy quản trị đô thị: Từ quản lý hành chính quan liêu sang quản trị minh bạch, sáng tạo, dựa trên tri thức, công nghệ và cộng đồng, phù hợp tinh thần đổi mới sáng tạo theo Nghị quyết 57 và kinh tế tư nhân theo Nghị quyết 68. 1. Mục tiêu tổ chức cuộc thi
Huy động nguồn lực tri thức, doanh nghiệp tư nhân, cộng đồng và chuyên gia quốc tế để đưa ra các giải pháp TOD và Metro toàn diện.
Thử nghiệm cơ chế quản lý, chính sách và phối hợp đa ngành, tăng hiệu quả, minh bạch và đồng thuận xã hội.
Xây dựng mô hình thí điểm sáng tạo, khả thi, bền vững, có thể nhân rộng cho các tuyến Metro và khu TOD khác.
2. Đối tượng và phạm vi tham gia
Đối tượng tham gia:
Chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực quy hoạch, kiến trúc, giao thông, quản lý đô thị, tài chính.
Doanh nghiệp tư nhân, start-up, các tổ chức nghiên cứu và các nhóm sáng tạo trong nước và quốc tế.
Cộng đồng dân cư, tổ chức xã hội, hiệp hội ngành nghề liên quan.
Phạm vi cuộc thi:
Tuyến Metro số 2 (Bến Thành – Tham Lương) và khu vực xung quanh (TOD)
Bốn chủ đề chính: Cơ chế – Chính sách, Tài chính – Nguồn lực, Quy hoạch – Kiến trúc, Cộng đồng – Tham vấn
3. Cách thức ra đề bài
Đề bài mở, đa chiều:
Gồm bốn chủ đề, yêu cầu đề xuất giải pháp đột phá, khả thi, minh bạch, đồng bộ.
Khuyến khích tích hợp công nghệ, dữ liệu đô thị, năng lượng xanh và mô hình kinh tế tư nhân.
Giai đoạn ra đề:
Xác định nhu cầu và điểm nghẽn hiện tại (theo khảo sát thực tiễn và dữ liệu quy hoạch).
Tham vấn sơ bộ với chuyên gia và doanh nghiệp để tinh chỉnh đề bài, đảm bảo thực tiễn và khả thi.
Công khai đề bài rộng rãi trên các kênh chính thức, mời tất cả đối tượng phù hợp tham gia.
4. Ban giám khảo và hội đồng chuyên môn
Ban Giám khảo (BGK):
Thành phần đa ngành: đại diện UBND TP.HCM, Sở Quy hoạch – Kiến trúc, Sở GTVT, Bộ Xây dựng, chuyên gia trong nước và quốc tế, đại diện cộng đồng và doanh nghiệp tư nhân.
Vai trò: đánh giá tính khả thi, sáng tạo, bền vững, đồng thuận xã hội.
Hội đồng chuyên môn:
Từng chủ đề có ban chuyên gia riêng, cung cấp tư vấn chuyên sâu cho BGK.
Tham vấn xuyên suốt quá trình thi, từ thiết kế đề xuất, triển khai mô hình, đến thẩm định phương án tài chính và chính sách. 5. Cách thức tổ chức cuộc thi
Giai đoạn 1: Chuẩn bị và công khai
Xây dựng khung thể lệ, tiêu chí đánh giá, cơ chế tham vấn.
Công khai đề bài, thông tin cuộc thi, quy định minh bạch về quyền lợi, trách nhiệm và sở hữu trí tuệ.
Giai đoạn 2: Huy động và tư vấn
Mở cổng nộp ý tưởng trực tuyến và trực tiếp.
Workshop và tọa đàm: tổ chức với chuyên gia, doanh nghiệp, cộng đồng để giải thích đề bài, giải đáp thắc mắc, huy động ý tưởng bổ sung.
Tư vấn xuyên suốt: BGK và hội đồng chuyên môn hướng dẫn, cung cấp dữ liệu, tạo điều kiện cho các nhóm hoàn thiện đề xuất.
Giai đoạn 3: Thẩm định và đánh giá
BGK chấm giải dựa trên tiêu chí: sáng tạo, khả thi, bền vững, tác động xã hội, khả năng nhân rộng.
Phản biện công khai: các đề xuất được trình bày trước cộng đồng, doanh nghiệp, cơ quan quản lý để lấy ý kiến bổ sung, tăng sự đồng thuận.
Giai đoạn 4: Công bố và triển khai
Công bố kết quả, trao giải cho các giải pháp xuất sắc.
Đề xuất áp dụng thử nghiệm các giải pháp cho tuyến Metro số 2 và khu TOD đi kèm.
Thiết lập cơ chế giám sát triển khai, minh bạch thông tin và tham gia cộng đồng, đảm bảo các giải pháp khả thi được triển khai thực tế. 6. Cơ chế tham gia của doanh nghiệp tư nhân và cộng đồng
Doanh nghiệp tư nhân:
Tham gia ngay từ đầu trong quá trình ra đề, tư vấn, phát triển giải pháp và thử nghiệm tài chính.
Được bảo đảm quyền lợi, chia sẻ rủi ro và lợi ích minh bạch, tạo động lực tham gia và đầu tư.
Cộng đồng và chuyên gia:
Tham gia tham vấn, phản biện, đánh giá tác động xã hội.
Đảm bảo ý kiến đa chiều được lắng nghe, nâng cao sự đồng thuận, giảm xung đột lợi ích và rút ngắn thời gian triển khai.
7. Minh bạch và đồng thuận xã hội
Mọi giai đoạn tổ chức công khai thông tin, dữ liệu, tiêu chí chấm giải và kết quả.
Tạo cơ chế phản hồi liên tục từ cộng đồng, chuyên gia và doanh nghiệp.
Kết quả: tăng sự tin tưởng vào bộ máy chính quyền, thúc đẩy tinh thần cải cách và đổi mới sáng tạo, đồng thời đồng thuận xã hội cao cho dự án Metro số 2 và TOD. Cuộc thi được thiết kế để trở thành mô hình thử nghiệm đột phá về tư duy tổ chức, huy động tri thức, kinh tế tư nhân và cộng đồng, phù hợp tinh thần:
Nghị quyết 57: Đổi mới thể chế, huy động tri thức, thúc đẩy sáng tạo.
Nghị quyết 68: Kinh tế tư nhân là trung tâm, Nhà nước tạo cơ chế thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia các dự án chiến lược.
Kết quả cuộc thi sẽ:
Phá vỡ các điểm nghẽn pháp lý, hành chính, tài chính và xã hội hiện nay.
Tạo các giải pháp TOD và Metro sáng tạo, khả thi, đồng bộ và bền vững.
Xây dựng một mô hình tổ chức minh bạch, đa ngành, có thể nhân rộng cho các dự án đô thị chiến lược khác. Kính gửi:
Ban Thường vụ Thành ủy TP.HCM
Chủ tịch UBND TP.HCM
Các Bộ, cơ quan liên quan của Chính phủ
V/v: Kiến nghị tổ chức “Cuộc thi ý tưởng phát triển TOD và Metro tuyến số 2” nhằm huy động tri thức, sáng kiến và nguồn lực đa ngành
Kính thưa Quý Lãnh đạo,
TP.HCM đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ, đồng thời đối mặt với các thách thức về đô thị hóa nhanh, ùn tắc giao thông, áp lực môi trường và nhu cầu nâng cao chất lượng sống cho người dân. Tuyến Metro số 2 (Bến Thành – Tham Lương) là trục chiến lược quan trọng, không chỉ kết nối các trung tâm đô thị, khu dân cư và khu công nghiệp mà còn là công cụ định hướng phát triển TOD (Transit-Oriented Development), góp phần tạo ra các khu đô thị đa chức năng, bền vững và hiện đại.
Tuy nhiên, trong thực tiễn triển khai, dự án đang gặp phải một số điểm nghẽn quan trọng:
Thiếu liên kết giữa cơ chế, chính sách, tài chính, quy hoạch, kiến trúc và nhu cầu cộng đồng, dẫn đến các giải pháp rời rạc, thiếu đồng bộ.
Nguồn lực tri thức và sáng kiến từ chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp tư nhân chưa được khai thác tối đa, làm hạn chế khả năng đột phá trong tư duy quy hoạch và thiết kế đô thị.
Cơ chế thử nghiệm đổi mới còn hạn chế, thiếu môi trường minh bạch để thử nghiệm các mô hình mới, gây chậm tiến độ và hạn chế hiệu quả đầu tư.
Để giải quyết các thách thức này, chúng tôi kính kiến nghị Quý Lãnh đạo xem xét việc tổ chức “Cuộc thi ý tưởng phát triển TOD và Metro tuyến số 2” với các đặc điểm đột phá như sau:
Đa ngành, đa lĩnh vực: Cuộc thi mở ra bốn chủ đề chính:
Cơ chế – Chính sách: Thử nghiệm cơ chế phối hợp Nhà nước – doanh nghiệp – cộng đồng, minh bạch, khả thi, giảm điểm nghẽn hành chính.
Tài chính – Nguồn lực: Huy động vốn tư nhân, quỹ đổi mới sáng tạo, cơ chế PPP, tạo nguồn lực bền vững, hiệu quả.
Quy hoạch – Kiến trúc: Phát triển TOD gắn Metro số 2, tích hợp giao thông, dịch vụ, thương mại, tiện ích công cộng, môi trường xanh.
Cộng đồng – Tham vấn: Huy động ý kiến cộng đồng, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tạo đồng thuận xã hội và tăng chất lượng quyết định.
Huy động tri thức và đổi mới sáng tạo:
Cuộc thi sẽ tạo môi trường minh bạch, cạnh tranh, khuyến khích sáng tạo, huy động nguồn lực chuyên gia, nhà khoa học, start-up và cộng đồng để đưa ra các giải pháp toàn diện, khả thi và đột phá cho Metro số 2 và TOD.
Căn cứ pháp lý và tinh thần Nghị quyết:
Nghị quyết 57-NQ/TW (Bộ Chính trị, 2024) nhấn mạnh: “Đổi mới thể chế, thúc đẩy sáng tạo và huy động tri thức” là động lực phát triển bền vững.
Nghị quyết 68-NQ/TW (Bộ Chính trị, 2025) khẳng định: “Kinh tế tư nhân là trung tâm, Nhà nước tạo điều kiện để doanh nghiệp tham gia các dự án chiến lược”.
Cuộc thi được thiết kế phù hợp với tinh thần đổi mới sáng tạo, thử nghiệm cơ chế, huy động tri thức và kinh tế tư nhân, đồng thời tăng cường minh bạch, đồng thuận và hiệu quả xã hội.
Kết quả kỳ vọng:
Các giải pháp cơ chế, chính sách và quản trị dự án đồng bộ, khả thi, giảm điểm nghẽn pháp lý và hành chính.
Hình thành các mô hình tài chính, quy hoạch, kiến trúc TOD sáng tạo, có thể nhân rộng cho các tuyến Metro và đô thị khác.
Tăng đồng thuận xã hội, sự tham gia cộng đồng và doanh nghiệp, giảm xung đột lợi ích, nâng cao hiệu quả triển khai.
Tạo mô hình thí điểm đột phá, minh bạch, bền vững, trở thành chuẩn mực cho các dự án đô thị chiến lược tiếp theo.
Kính mong Quý Lãnh đạo xem xét và phê duyệt việc tổ chức cuộc thi, đồng thời giao các cơ quan liên quan xây dựng kế hoạch triển khai, tiêu chí đánh giá và cơ chế tài chính, cơ chế phối hợp đa ngành, đảm bảo cuộc thi diễn ra hiệu quả, minh bạch, có tác động sâu rộng và bền vững.
Chúng tôi tin tưởng rằng, cuộc thi ý tưởng này sẽ là bước đi chiến lược, tạo đột phá trong tư duy phát triển đô thị, Metro và TOD tại TP.HCM, phù hợp với tinh thần đổi mới sáng tạo và khuyến khích kinh tế tư nhân mà Bộ Chính trị đã đề ra.
Kính mong Quý Lãnh đạo quan tâm, chỉ đạo và ủng hộ.
Trân trọng cảm ơn!
#
Người gửi: TRƯƠNG NAM THUẬN Thời gian gửi: 27/10/2025
CƠ SỞ LÝ LUẬN, KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỔI MỚI QUY HOẠCH
Nguồn gốc tư duy quy hoạch hiện nay tại Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ mô hình quy hoạch của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa thế kỷ XX, trong đó các loại đồ án quy hoạch như quy hoạch chung, quy hoạch phân khu 1/2000 và quy hoạch chi tiết 1/500 được xây dựng dựa trên tư duy quản lý hành chính và kỹ thuật. Tư duy này chủ yếu coi quy hoạch như một công cụ phân chia không gian và kiểm soát sử dụng đất, chứ chưa thực sự coi đó là công cụ kiến tạo phát triển, dẫn dắt xã hội và hình thành các hệ sinh thái đô thị – vùng đồng bộ. Vì vậy, hệ thống quy hoạch được cấu trúc theo thứ bậc tuyến tính “quy hoạch chung – quy hoạch phân khu – quy hoạch chi tiết”, mỗi tầng chỉ là một mức độ chi tiết hóa của tầng trên. Cấu trúc này dù hợp lý về mặt kỹ thuật nhưng thiếu tính động, liên kết ngang và cơ chế phản hồi từ thực tiễn đời sống xã hội, khiến quy hoạch dễ trở nên rời rạc, cứng nhắc và không phù hợp với nhu cầu phát triển nhanh và phức tạp của đô thị hiện đại.
Mâu thuẫn lý luận cốt lõi nằm ở chỗ, quy hoạch được lập ra để dự báo và dẫn dắt phát triển, nhưng thực tế lại biến nó thành công cụ hành chính, phục vụ hợp thức hóa các thủ tục đầu tư thay vì định hướng phát triển. Trong khi lý luận phát triển đô thị hiện đại coi quy hoạch là hệ thống tổ chức đời sống con người trong không gian, tại Việt Nam, quy hoạch vẫn chủ yếu dừng lại ở việc vẽ bản đồ đất đai và xác định các chỉ tiêu kỹ thuật. Hệ thống đồ án hiện hành vận hành theo trật tự tuyến tính, đóng kín, trong khi xã hội ngày nay đòi hỏi tư duy mở, hệ thống và linh hoạt, có khả năng điều phối liên ngành và thích ứng với biến động nhanh chóng của kinh tế, xã hội, công nghệ và môi trường.
Do đó, thay đổi tư duy quy hoạch là cần thiết. Quy hoạch phải chuyển từ cách tiếp cận “quản lý – kiểm soát” sang “hỗ trợ – kiến tạo – đồng kiến tạo”, coi nó như một quá trình liên tục, tương tác và có tính thích ứng cao, chứ không còn là một bản vẽ tĩnh kéo dài 20–30 năm. Đồng thời, quy hoạch phải gắn chặt với lý luận phát triển vùng, năng lực xã hội và đổi mới sáng tạo, đúng tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW, trong đó đổi mới sáng tạo không chỉ là công nghệ mà là đổi mới toàn bộ cách làm và cách nghĩ.
Về cơ sở khoa học, quy hoạch hiện đại dựa trên quan niệm đô thị là một hệ thống phức hợp, nơi con người, không gian, kinh tế, môi trường, văn hóa và công nghệ tương tác liên tục. Một hệ thống như vậy không thể điều hành bằng các công cụ phân tầng cứng nhắc mà cần có cơ chế phản hồi, tương tác và khả năng thích nghi. Ba tầng quy hoạch hiện nay thiếu cơ chế phản hồi này, khiến mọi quyết định bị đóng khung và không thể điều chỉnh theo thời gian thực. Đồng thời, sự phát triển mạnh mẽ của GIS, trí tuệ nhân tạo, mô hình dự báo và dữ liệu lớn tạo ra khả năng xây dựng quy hoạch như một hệ thống thông minh, cập nhật liên tục. Tuy nhiên, cấu trúc đồ án hiện hành vẫn vận hành dựa trên bản vẽ giấy và chỉ tiêu cố định, trái ngược với xu hướng quốc tế, nơi quy hoạch trở thành nền tảng dữ liệu phục vụ điều phối và ra quyết định theo thời gian thực.
Ngoài ra, khoa học hành vi và xã hội học đô thị chỉ ra rằng đô thị không chỉ là không gian vật lý mà còn là mạng lưới hành vi, tương tác xã hội và kinh tế chia sẻ. Khi quy hoạch chỉ tập trung vào hình khối và đất đai mà bỏ qua động lực con người, đô thị sẽ thất bại trong việc tạo ra không gian sống thực sự chất lượng. Quy hoạch hiện đại nhấn mạnh sự tham gia của cộng đồng, năng lực sáng tạo xã hội và khả năng thích ứng văn hóa – những yếu tố vẫn còn thiếu trong mô hình đồ án hiện hành. Về khoa học chính sách và thể chế, hiệu quả của quy hoạch phụ thuộc vào khả năng phối hợp liên ngành và cơ chế tự điều chỉnh của thể chế. Ba loại đồ án hiện nay được quản lý tách biệt giữa Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và địa phương, khiến quy hoạch trở thành chuỗi thủ tục phân mảnh, không vận hành như một chính sách phát triển. Nguyên tắc khoa học thể chế hiện đại yêu cầu chuyển từ mô hình kiểm soát sang mô hình hỗ trợ và học hỏi, trong đó quy hoạch là công cụ để thử nghiệm, học tập và điều chỉnh, chứ không phải khuôn mẫu đóng kín.
Thực tiễn cho thấy hệ thống đồ án hiện hành đã bộc lộ nhiều hạn chế. Nhiều quy hoạch chung trở nên lỗi thời chỉ sau 5 năm, nhưng phải mất hàng chục năm mới được điều chỉnh. Quy hoạch phân khu 1/2000 thường chỉ tồn tại trên giấy, không gắn với nguồn lực đầu tư, trong khi quy hoạch chi tiết 1/500 lại bị “tư nhân hóa”, trở thành công cụ hợp thức hóa dự án. Hậu quả là không gian đô thị phân mảnh, đầu tư manh mún, hạ tầng không đồng bộ, đô thị không phản ánh nhu cầu thực của người dân và sự sáng tạo xã hội bị bóp nghẹt. Nhà nước buộc phải liên tục điều chỉnh ngoài quy hoạch, biểu hiện rõ ràng của việc hệ thống hiện tại không còn đủ năng lực định hướng phát triển.
Hệ thống đồ án quy hoạch hiện hành được xây dựng theo mô hình quản lý hành chính – kỹ thuật, chứ không phải mô hình phát triển sáng tạo và kiến tạo giá trị xã hội.
Điều đó dẫn đến ba căn bệnh lớn:
1.Quy hoạch nặng về hình thức – nhẹ về hành động.
2.Tư duy khép kín theo cấp bậc đồ án – không tương tác theo hệ thống mở.
3.Thiếu cơ chế chuyển hóa từ bản vẽ sang dự án, và từ dự án sang đời sống.
Những điểm yếu này khiến quy hoạch đi ngược lại tinh thần của Nghị quyết 57, vốn kêu gọi đổi mới cách làm, giải phóng nguồn lực, lấy đổi mới sáng tạo làm động lực chủ đạo, hướng tới một mô hình điều phối linh hoạt, thực tiễn và có khả năng phản ứng nhanh với biến động xã hộ
II. NHƯỢC ĐIỂM CỤ THỂ CỦA TỪNG LOẠI ĐỒ ÁN
1. Quy hoạch chung đô thị
Nhược điểm chính:
Quá tổng quát và tĩnh: chỉ nêu định hướng đến năm 2030–2050 nhưng thiếu cơ chế triển khai, không có “hệ hành động” tương ứng.
Không cập nhật theo thực tế biến động: nhiều đồ án quy hoạch chung đã lạc hậu ngay khi vừa phê duyệt do quá trình lập kéo dài 5–10 năm.
Thiếu dữ liệu và công cụ số: phần lớn dựa vào khảo sát thủ công, không tích hợp dữ liệu mở, GIS động, hoặc hệ thống dự báo liên ngành.
Tách rời khỏi động lực phát triển vùng: chưa có mô hình quy hoạch vùng tích hợp, khiến đô thị không thể gắn kết với kinh tế – xã hội – sinh thái của vùng.
So với Nghị quyết 57:
Nghị quyết 57 yêu cầu chuyển đổi phương pháp quy hoạch từ “vẽ để quản lý” sang “thiết kế để phát triển”, nghĩa là quy hoạch phải trở thành công cụ sáng tạo, thử nghiệm mô hình mới, chứ không phải tập hợp bản đồ hành chính.
Quy hoạch chung hiện hành chưa có cấu phần “đổi mới thể chế”, “hệ sinh thái sáng tạo”, “vùng thử nghiệm chính sách” – các yếu tố trung tâm của Nghị quyết 57.
2. Quy hoạch phân khu (tỷ lệ 1/2000)
Nhược điểm chính:
Cứng nhắc và chồng chéo: quy hoạch phân khu chủ yếu tái hiện ranh giới kỹ thuật, chia khu chức năng cứng, không phản ánh tính linh hoạt của thị trường và nhu cầu người dân.
Thiếu liên kết với chiến lược đầu tư: không có cơ chế xác định nguồn lực, đối tác, thời gian hay mô hình tài chính.
Phụ thuộc nặng vào quy hoạch chung lỗi thời: vì quy hoạch chung chậm điều chỉnh, quy hoạch phân khu bị “đóng khung”, dẫn đến nhiều bản đồ 1/2000 không còn phù hợp thực tiễn.
Không có cơ chế đồng kiến tạo: người dân, doanh nghiệp, tổ chức xã hội ít được tham gia từ đầu – dẫn đến quy hoạch chỉ là sản phẩm của cơ quan nhà nước, thiếu tính cộng sinh.
So với Nghị quyết 57:
Nghị quyết 57 nhấn mạnh “đổi mới cách làm chính sách”, “tạo môi trường sáng tạo mở” và “thúc đẩy liên kết Nhà nước – doanh nghiệp – xã hội”.
Quy hoạch phân khu hiện nay đi ngược tinh thần đó: nó bị hành chính hóa, không thử nghiệm mô hình hợp tác công tư, không tích hợp công nghệ, và không có cơ chế để điều chỉnh động.
3. Quy hoạch chi tiết (tỷ lệ 1/500)
Nhược điểm chính:
Trở thành công cụ “hợp thức hóa” dự án hơn là công cụ thiết kế không gian.
→ Nhiều nhà đầu tư tự lập quy hoạch 1/500 chỉ để đáp ứng thủ tục, không mang giá trị cộng đồng.
Thiếu tính thống nhất với quy hoạch 1/2000 và 1/10000: dẫn đến tình trạng “mạnh ai nấy vẽ”, không hình thành cấu trúc đô thị đồng bộ.
Không có cơ chế đánh giá sau quy hoạch: khi dự án xây xong, không có ai đánh giá xem nó có đáp ứng chỉ tiêu phát triển bền vững hay không.
Bỏ qua yếu tố con người và xã hội: quy hoạch 1/500 thường chỉ chăm chăm vào chỉ tiêu kỹ thuật (mật độ, tầng cao) mà không có chương trình an sinh, văn hóa, việc làm – trái với tinh thần “phát triển lấy con người làm trung tâm”.
So với Nghị quyết 57:
Nghị quyết 57 yêu cầu mô hình phát triển đô thị dựa trên đổi mới sáng tạo, với cấu phần kinh tế sáng tạo, xã hội sáng tạo và quản trị sáng tạo.
Quy hoạch chi tiết hiện nay vẫn đi theo lối mòn kỹ thuật – hành chính, không có sự linh hoạt để thử nghiệm các “mô hình sống mới”, “mô hình đầu tư mới” hay “mô hình hợp tác xã hội”.
4. Thiết kế đô thị
Nhược điểm chính:
Chưa được coi là công cụ pháp lý mạnh. Nhiều địa phương lập thiết kế đô thị chỉ để đủ hồ sơ, không có tính ràng buộc trong cấp phép hay quản lý kiến trúc.
Tách rời bản sắc và đời sống cộng đồng. Thiết kế đô thị hiện nay thường mang tính hình thức (mặt đứng, tuyến phố) chứ chưa phải là “thiết kế cuộc sống đô thị” – nơi con người, kinh tế, văn hóa cùng tương tác.
Không có mô hình quản lý sau thiết kế: không có “đơn vị quản trị không gian” (place management unit) để thực hiện và duy trì giá trị thiết kế trong thực tế.
So với Nghị quyết 57:
Nghị quyết 57 kêu gọi “tư duy thiết kế đô thị sáng tạo”, coi thiết kế là công cụ chiến lược để tái cấu trúc không gian, tái định hình văn hóa đô thị, thu hút nhân tài, khơi dậy năng lượng sáng tạo của người dân.
Trong khi đó, thiết kế đô thị hiện hành vẫn chỉ là phần phụ của quy hoạch, thiếu quyền lực, thiếu hành động và thiếu sức sống.
Trong khi đó, cả trong nước và thế giới, nhiều quốc gia đã áp dụng mô hình quy hoạch động, quy hoạch tích hợp vùng – đô thị – sinh thái, hoặc quy hoạch hướng dữ liệu và hành vi con người. Ở Việt Nam, Nghị quyết 57-NQ/TW năm 2024 là phản ứng chính trị đối với thực trạng này, nhấn mạnh rằng đổi mới sáng tạo không chỉ là công nghệ mà phải bắt đầu từ tư duy thể chế và quy trình làm chính sách, trong đó quy hoạch là lĩnh vực cần đổi mới cấp bách. Các nghị quyết số 31, 24 và 98 đều khẳng định cần đổi mới mô hình quy hoạch vùng, quy hoạch TP.HCM và cơ chế thí điểm đặc thù, thừa nhận rằng mô hình quy hoạch ba tầng hiện hành không còn đáp ứng yêu cầu phát triển mới và cần chuyển sang tư duy tích hợp, động, thích ứng và sáng tạo.
Thay vì duy trì mô hình ba cấp quy hoạch gồm quy hoạch chung, quy hoạch phân khu 1/2000 và quy hoạch chi tiết 1/500 như hiện nay, cần chuyển sang một hệ thống mới mang tính tích hợp và linh hoạt, gọi là Hệ thống Quy hoạch Tích hợp Linh hoạt (Integrated Adaptive Planning System). Các loại quy hoạch hiện hành vốn hình thành từ tư duy “nhà nước kiểm soát không gian”, coi quy hoạch chủ yếu là công cụ hành chính để kiểm tra, phê duyệt và cấp phép xây dựng, chứ chưa thực sự trở thành công cụ điều phối phát triển. Trong bối cảnh đô thị hiện đại, nơi các thành phố trở thành hệ sinh thái sống động, liên thông và đa ngành, mô hình quy hoạch cũ đã bộc lộ rõ hạn chế khi không đủ linh hoạt để phản ứng với biến động kinh tế – xã hội – môi trường và nhu cầu sống của người dân.
Hệ thống Quy hoạch Tích hợp Linh hoạt đề xuất một cách tiếp cận mới, trong đó quy hoạch không còn là “bản vẽ tĩnh” mà là một quy trình tương tác liên tục, vừa định hướng phát triển dài hạn, vừa cho phép điều chỉnh theo dữ liệu thực tế và nhu cầu xã hội. Trọng tâm là xây dựng một khung pháp lý hiện đại, bảo đảm quy hoạch có thể cập nhật, thử nghiệm và phản hồi theo thời gian thực. Cụ thể, hệ thống này bao gồm ba cơ chế chính:
Thứ nhất, cơ chế cập nhật linh hoạt (Adaptive Review Mechanism), cho phép quy hoạch được rà soát và điều chỉnh định kỳ dựa trên dữ liệu thực tế, đánh giá tác động của đầu tư, biến động dân số, biến đổi khí hậu, tiến bộ công nghệ và các yếu tố xã hội. Thay vì chờ các chu kỳ điều chỉnh dài hạn hàng chục năm, các cơ quan quản lý có thể cập nhật quy hoạch theo chu kỳ ngắn, đồng thời tích hợp cơ chế phản hồi từ cộng đồng và doanh nghiệp, đảm bảo rằng các quyết định luôn dựa trên bối cảnh hiện tại và triển vọng tương lai.
Thứ hai, quy trình đồng kiến tạo (Co-Creation Planning) được thiết lập để đảm bảo sự tham gia tích cực của mọi bên liên quan, bao gồm Nhà nước, doanh nghiệp, các chuyên gia và cộng đồng dân cư. Thay vì quy hoạch do cơ quan quản lý đơn phương lập ra, mọi quyết định quan trọng đều được hình thành qua quá trình trao đổi, thí nghiệm và phản hồi, nhằm vừa đáp ứng nhu cầu phát triển, vừa khuyến khích sáng tạo, thử nghiệm các mô hình mới. Quy trình này giúp tạo ra sự đồng thuận, tăng khả năng thực thi và đảm bảo rằng không gian sống được thiết kế thực sự phù hợp với nhu cầu của người dân và hoạt động kinh tế – xã hội.
Thứ ba, hệ thống dữ liệu mở (Urban Digital Platform) là nền tảng cho mọi hoạt động lập và vận hành quy hoạch. Mọi dữ liệu về sử dụng đất, hạ tầng, dân cư, môi trường, kinh tế, văn hóa và công nghệ đều được số hóa, cập nhật liên tục và công khai minh bạch. Hệ thống này không chỉ phục vụ cho các cơ quan quản lý mà còn cho phép doanh nghiệp, các tổ chức nghiên cứu và cộng đồng theo dõi, đóng góp ý kiến và tham gia vào quá trình đồng kiến tạo. Dữ liệu mở cũng là cơ sở để triển khai các mô hình mô phỏng, dự báo và đánh giá tác động, giúp quy hoạch trở thành một công cụ thông minh, phản ứng nhanh và khoa học.
Để hiện thực hóa mô hình này, cần thí điểm “Phòng thí nghiệm đô thị” tại các thành phố lớn như TP.HCM, Hà Nội và Đà Nẵng. Đây sẽ là môi trường thử nghiệm các phương pháp quy hoạch tích hợp, các cơ chế cập nhật linh hoạt, và quy trình đồng kiến tạo. Các phòng thí nghiệm đô thị cho phép áp dụng công nghệ mới, thử nghiệm các mô hình quản lý và phát triển đô thị sáng tạo, đánh giá tác động trước khi triển khai rộng rãi. Đây cũng là cơ hội để đào tạo nhân lực quy hoạch mới, nâng cao năng lực quản trị đa ngành và thử nghiệm chính sách phát triển linh hoạt, phù hợp với tinh thần Nghị quyết 57 về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Như vậy, hệ thống Quy hoạch Tích hợp Linh hoạt không chỉ thay đổi cấu trúc ba cấp cứng nhắc hiện nay mà còn tạo ra một mô hình quy hoạch sống, gắn kết dữ liệu, con người, công nghệ và chính sách, giúp đô thị trở thành hệ sinh thái thích ứng, sáng tạo và bền vững, đồng thời nâng cao năng lực điều phối phát triển quốc gia theo hướng hiện đại và hiệu quả.
Mô hình quản trị quy hoạch mới được tổ chức theo ba tầng gắn kết chặt chẽ và vận hành số hóa, nhằm thay thế mô hình ba cấp cứng nhắc hiện nay và đảm bảo tính linh hoạt, thích ứng và đồng kiến tạo trong phát triển đô thị và vùng.
Tầng đầu tiên là Tầng Chiến lược Quốc gia và Vùng, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Văn phòng Chính phủ cùng Hội đồng điều phối vùng chủ trì. Ở tầng này, các cơ quan trung ương có vai trò xác lập khung phát triển vùng và tầm nhìn dài hạn 30–50 năm, đồng thời ban hành bộ tiêu chí quy hoạch tích hợp và hướng dẫn phương pháp đổi mới sáng tạo. Tầng này cũng có nhiệm vụ phê duyệt khung điều phối vùng, thay thế cho mô hình quy hoạch chung cứng nhắc hiện nay. Các công cụ và sản phẩm chính của tầng chiến lược bao gồm khung không gian vùng, bộ tiêu chí hướng dẫn tích hợp và cổng dữ liệu mở quốc gia về quy hoạch, từ đó tạo nền tảng pháp lý, phương pháp luận và dữ liệu cho các tầng dưới.
Tầng thứ hai là Tầng Địa phương – Đô thị, do UBND tỉnh/thành phố cùng Sở Quy hoạch – Kiến trúc và Ban điều phối đô thị chịu trách nhiệm chủ trì. Ở tầng này, nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng “Chương trình phát triển không gian” (Spatial Program), thay thế cho quy hoạch phân khu truyền thống, đồng thời tổ chức các hội đồng đồng kiến tạo với sự tham gia của chuyên gia, doanh nghiệp và cộng đồng. Tầng địa phương cũng vận hành hệ thống dữ liệu, thực hiện các mô phỏng phát triển và lập báo cáo đánh giá định kỳ. Các sản phẩm của tầng này bao gồm bản đồ tương tác, các kịch bản phát triển trong vòng 10 năm và các báo cáo đánh giá định kỳ ba năm một lần, từ đó đảm bảo sự liên kết giữa chiến lược quốc gia và các dự án cụ thể, đồng thời phản hồi thông tin thực tiễn để điều chỉnh kế hoạch.
Tầng thứ ba là Tầng Dự án và Khu vực Thực thi, nơi doanh nghiệp, đơn vị tư vấn, cộng đồng cư dân và chính quyền cấp quận, huyện thực hiện các hoạt động cụ thể. Tầng này tập trung vào “thiết kế thích ứng” (Adaptive Design), thay thế cho quy hoạch chi tiết 1/500 cứng nhắc, đồng thời tổ chức thử nghiệm các mô hình nhà ở, hạ tầng và không gian công cộng theo nguyên tắc mở. Dữ liệu thực tế từ các dự án được cập nhật liên tục vào hệ thống chung, giúp phản hồi và cải thiện các quyết định quy hoạch ở các tầng trên. Các sản phẩm chính bao gồm hồ sơ thiết kế thích ứng, báo cáo dữ liệu thực tế, mô hình số 3D của khu vực và đánh giá tác động xã hội. Tầng dự án không chỉ thực thi quy hoạch mà còn là cơ chế thử nghiệm, học hỏi và cải tiến, đảm bảo rằng quy hoạch trở thành một hệ thống sống, thích ứng và sáng tạo.
Như vậy, ba tầng của mô hình quản trị quy hoạch mới vận hành liên kết, từ chiến lược quốc gia, đến định hướng không gian địa phương, rồi đến thực thi dự án và khu vực, kết nối dữ liệu, con người và công nghệ, tạo nên một hệ thống quy hoạch tích hợp, linh hoạt, thích ứng nhanh và đồng kiến tạo.
Đề xuất hợp nhất 3 cấp đồ án hiện nay (quy hoạch chung, phân khu, chi tiết) thành một hệ quy hoạch tích hợp đa lớp (Integrated Multi-layer Planning System), gồm ba lớp dữ liệu và quyết định chính:
Lớp chiến lược phát triển đô thị (Strategic Urban Layer): xác định tầm nhìn, mục tiêu, cấu trúc động của đô thị – thay thế cho “quy hoạch chung”.
Lớp tổ chức không gian chức năng – ngành nghề (Functional Layer): thể hiện mạng lưới các trung tâm, cụm ngành, vùng sinh thái và hạ tầng – kế thừa nội dung “phân khu”, nhưng theo hướng linh hoạt, có thể cập nhật theo chu kỳ 3–5 năm.
Lớp thiết kế không gian – dự án (Project Layer): định hướng thiết kế đô thị, quy mô công trình, chỉ tiêu sử dụng đất, gắn trực tiếp với kế hoạch đầu tư – thay cho “quy hoạch chi tiết 1/500”.
Ba lớp này không phải ba đồ án riêng biệt mà là một hệ thống đồng bộ, cập nhật theo thời gian, vận hành bằng cơ sở dữ liệu GIS và nền tảng số, giúp cơ quan quản lý, doanh nghiệp và cộng đồng cùng theo dõi, phản hồi và điều chỉnh.
Đột phá của loại quy hoạch này nằm ở việc chuyển từ mô hình ba cấp tĩnh, tuyến tính, hành chính hóa sang một hệ thống tích hợp, linh hoạt, thích ứng và đồng kiến tạo, nơi quy hoạch không còn là “bản vẽ phê duyệt” mà trở thành quy trình sống, kết nối dữ liệu, con người, công nghệ và chính sách. Những điểm đột phá nổi bật bao gồm:
Thứ nhất, quy hoạch trở nên linh hoạt và thích ứng theo thời gian thực. Thay vì chờ các chu kỳ điều chỉnh kéo dài hàng chục năm, hệ thống cập nhật linh hoạt (Adaptive Review Mechanism) cho phép rà soát, điều chỉnh và phản hồi ngay khi xuất hiện biến động về dân số, kinh tế, đầu tư, môi trường hay công nghệ. Điều này giúp quy hoạch không chỉ dự báo mà còn dẫn dắt phát triển một cách chủ động, phù hợp với bối cảnh biến động nhanh của xã hội và thị trường.
Thứ hai, quy hoạch được xây dựng theo nguyên tắc đồng kiến tạo (Co-Creation Planning), kết hợp Nhà nước, doanh nghiệp, chuyên gia và cộng đồng. Sự tham gia trực tiếp này không chỉ làm tăng tính khả thi và hiệu quả thực thi mà còn giải phóng năng lực sáng tạo của các bên liên quan, tạo ra các giải pháp thích ứng, đổi mới, và thiết thực với nhu cầu thực tế.
Thứ ba, quy hoạch vận hành trên hệ thống dữ liệu mở (Urban Digital Platform), nơi mọi thông tin về sử dụng đất, hạ tầng, dân cư, kinh tế, môi trường và công nghệ được số hóa, cập nhật liên tục và công khai minh bạch. Hệ thống này không chỉ hỗ trợ ra quyết định dựa trên dữ liệu mà còn cho phép mô phỏng kịch bản, đánh giá tác động và học hỏi từ các thử nghiệm, từ đó trở thành một công cụ thông minh, phản ứng nhanh với biến động.
Đặc biệt, mô hình này phù hợp với thực trạng Việt Nam và những đô thị đang phát triển nhanh bởi nó giải quyết trực tiếp các vấn đề mà mô hình ba cấp cũ không thể: quy hoạch lỗi thời nhanh, đầu tư manh mún, hạ tầng phân mảnh, thiếu liên kết giữa chiến lược, kế hoạch và dự án. Trong bối cảnh biến động kinh tế lớn, thay đổi nhanh chóng về công nghệ và nhu cầu xã hội, quy hoạch tích hợp linh hoạt cho phép vừa giữ tầm nhìn dài hạn, vừa phản ứng kịp thời với các cơ hội và rủi ro mới, đảm bảo đô thị và vùng phát triển bền vững, đồng bộ và hiệu quả.
Trong mô hình quy hoạch tích hợp linh hoạt, các bên liên quan không còn bị động trong việc xin phê duyệt, điều chỉnh hay chờ hướng dẫn, mà có thể chủ động lập kế hoạch, tham gia thử nghiệm và đóng góp vào quá trình phát triển không gian sống của chính họ. Thay vì quy trình cứng nhắc và kéo dài, mô hình mới xác lập khung thử nghiệm (Urban Sandbox) – một cơ chế cho phép các bên thử nghiệm các ý tưởng, dự án và giải pháp phát triển trong phạm vi cho phép, đồng thời thu thập dữ liệu và phản hồi để điều chỉnh quy hoạch tổng thể.
Ở tầng chiến lược quốc gia và vùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Văn phòng Chính phủ và Hội đồng điều phối vùng đóng vai trò xác lập khung phát triển dài hạn, tiêu chí quy hoạch tích hợp và các nguyên tắc thử nghiệm. Họ không chỉ ban hành định hướng mà còn tạo môi trường pháp lý, công cụ dữ liệu và khung thử nghiệm, để các bên liên quan khác có thể tham gia chủ động.
Tại tầng địa phương – đô thị, UBND tỉnh/thành phố cùng Sở Quy hoạch – Kiến trúc và Ban điều phối đô thị tổ chức quy trình đồng kiến tạo, nơi chính quyền, chuyên gia, doanh nghiệp và cộng đồng cùng tham gia xây dựng “Chương trình phát triển không gian”. Ở đây, mọi ý tưởng về đầu tư, hạ tầng, không gian công cộng hay nhà ở đều được thảo luận, thử nghiệm và mô phỏng trước khi triển khai thực tế. Chính quyền địa phương không còn là người duy nhất quyết định, mà trở thành người điều phối và kết nối, bảo đảm các quyết định vừa tuân thủ chiến lược vùng vừa phù hợp thực tiễn và năng lực của địa phương.
Trên tầng dự án và khu vực thực thi, doanh nghiệp, đơn vị tư vấn và cộng đồng cư dân được trao quyền chủ động triển khai các dự án thử nghiệm. Họ thực hiện thiết kế thích ứng, thử nghiệm các mô hình nhà ở, hạ tầng, không gian công cộng và dịch vụ đô thị theo nguyên tắc mở, đồng thời liên tục cập nhật dữ liệu vào hệ thống số hóa chung. Việc này tạo cơ chế học hỏi liên tục, nơi mọi bên có thể quan sát, đánh giá và cải tiến, thay vì chờ phê duyệt hay hướng dẫn từ trên xuống.
Như vậy, cơ chế đồng kiến tạo đảm bảo rằng mọi bên đều là chủ thể, từ việc lập kế hoạch, thử nghiệm, triển khai đến điều chỉnh. Thay vì chờ quy trình hành chính, các bên tham gia có thể khai thác khung thử nghiệm, chia sẻ dữ liệu, phối hợp với các bên khác và đóng góp trực tiếp vào quyết định chiến lược và phát triển địa phương. Mô hình này không chỉ thúc đẩy sáng tạo, tăng tốc triển khai mà còn giúp quy hoạch trở nên linh hoạt, thực tiễn và thích ứng với biến động nhanh của đô thị và nền kinh tế
Loại quy hoạch tích hợp linh hoạt này có khả năng phá vỡ ba điểm nghẽn lớn đang tồn tại trong hệ thống quy hoạch hiện nay, giúp đô thị và vùng phát triển hiệu quả hơn, thích ứng nhanh với biến động xã hội và kinh tế. Ba điểm nghẽn đó cụ thể là:
Thứ nhất, nghẽn về tính linh hoạt và cập nhật. Quy hoạch hiện hành ba tầng cứng nhắc không thể điều chỉnh kịp thời trước những thay đổi của kinh tế, dân số, công nghệ hay môi trường. Các đồ án chung, phân khu, chi tiết mất nhiều năm mới được rà soát và điều chỉnh, dẫn đến việc “quy hoạch lỗi thời trước khi kịp triển khai”. Hệ thống tích hợp linh hoạt phá vỡ nghẽn này bằng cơ chế cập nhật liên tục, cho phép phản hồi, mô phỏng và điều chỉnh theo dữ liệu thực tế, đảm bảo quy hoạch luôn dẫn dắt phát triển chứ không chỉ là thủ tục hành chính.
Thứ hai, nghẽn về sự tham gia và đồng kiến tạo. Mô hình cũ đặt Nhà nước và cơ quan quản lý làm trung tâm, các doanh nghiệp và cộng đồng chỉ có thể “xin phép” hay tuân thủ hướng dẫn. Điều này tạo ra khoảng cách giữa quy hoạch và nhu cầu thực tế, đồng thời kìm hãm sáng tạo. Hệ thống mới giải quyết nghẽn này bằng cơ chế đồng kiến tạo, nơi mọi bên liên quan – từ chính quyền, doanh nghiệp đến cư dân – đều là chủ thể trong lập kế hoạch, thử nghiệm và triển khai. Quy hoạch trở thành một quá trình tương tác liên tục, tăng tính khả thi, sáng tạo và phù hợp thực tiễn.
Thứ ba, nghẽn về liên kết và điều phối giữa các cấp và ngành. Ba loại đồ án hiện nay vận hành tách biệt, phân mảnh, gây lãng phí nguồn lực, đầu tư manh mún, hạ tầng không đồng bộ. Mô hình tích hợp linh hoạt phá vỡ nghẽn này bằng cách gắn kết ba tầng từ chiến lược quốc gia – vùng, địa phương – đô thị, đến dự án – khu vực thực thi, kết nối dữ liệu và cơ chế phản hồi. Các quyết định được phối hợp liên ngành, liên cấp, giúp đồng bộ hóa không gian, hạ tầng, nguồn lực và chính sách, đồng thời đảm bảo mọi quyết định dựa trên bối cảnh thực tế và dữ liệu minh bạch.
Nhờ phá vỡ được ba điểm nghẽn này, quy hoạch không còn là thủ tục hành chính tĩnh, mà trở thành công cụ dẫn dắt phát triển thông minh, linh hoạt và sáng tạo, phù hợp với tốc độ thay đổi nhanh chóng của kinh tế, đô thị và xã hội hiện nay.
Nội dung nghiên cứu cụ thể của quy hoạch tích hợp linh hoạt bao gồm nhiều lớp thông tin và phân tích, từ chiến lược vùng đến thiết kế dự án. Ở cấp chiến lược quốc gia và vùng, nghiên cứu tập trung vào xác lập tầm nhìn dài hạn 30–50 năm, bao gồm không gian phát triển kinh tế, phân bổ hạ tầng, mạng lưới giao thông, khu dân cư, không gian công cộng, và các khu vực sinh thái quan trọng. Đồng thời, nghiên cứu xác định các nguyên tắc tích hợp và đổi mới sáng tạo, khung thử nghiệm và tiêu chí đánh giá tác động của mọi quyết định quy hoạch. Tầng địa phương – đô thị nghiên cứu chi tiết hơn về chương trình phát triển không gian (Spatial Program), bao gồm kịch bản phát triển từng khu vực, nhu cầu nhà ở, hạ tầng dịch vụ, mô hình giao thông và các cơ chế đồng kiến tạo với cộng đồng, doanh nghiệp và chuyên gia. Tầng dự án – khu vực thực thi tập trung vào thiết kế thích ứng, thử nghiệm các mô hình nhà ở, hạ tầng, không gian công cộng và dịch vụ đô thị, đồng thời thu thập dữ liệu thực tế về hành vi, nhu cầu và tác động kinh tế – xã hội.
Ai nghiên cứu và nghiên cứu như thế nào? Mô hình này là một hợp tác đa ngành, đa bên, kết hợp năng lực của cơ quan Nhà nước, viện nghiên cứu, trường đại học, đơn vị tư vấn chuyên nghiệp, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư. Ở cấp chiến lược, Bộ KHĐT, Bộ Xây dựng, Văn phòng Chính phủ cùng Hội đồng điều phối vùng chỉ đạo và tổng hợp nghiên cứu, đảm bảo khung pháp lý, tiêu chí và tầm nhìn. Ở cấp địa phương, Sở Quy hoạch – Kiến trúc và Ban điều phối đô thị tổ chức nghiên cứu dữ liệu thực địa, khảo sát nhu cầu dân cư, mô phỏng kịch bản phát triển và đánh giá tác động. Tầng dự án và khu vực thực thi được thực hiện bởi các doanh nghiệp, đơn vị tư vấn, cộng đồng và chính quyền quận/huyện, thực hiện các thử nghiệm thiết kế, thu thập dữ liệu thực tế và phản hồi thông tin vào hệ thống chung. Phương pháp nghiên cứu kết hợp dữ liệu định lượng và định tính, bao gồm khảo sát, GIS, mô phỏng 3D, phân tích hành vi và kinh tế đô thị, đánh giá tác động xã hội, môi trường và hạ tầng.
Tác động đến các bên tham gia là rất rõ ràng. Nhà nước ở mọi cấp trở thành người điều phối, cung cấp khung pháp lý, dữ liệu và tiêu chí, thay vì chỉ cấp phép. Doanh nghiệp và nhà đầu tư được chủ động thử nghiệm các dự án, tối ưu hóa nguồn lực, tìm cơ hội kinh doanh, đồng thời chia sẻ dữ liệu để tăng khả năng thực thi. Cộng đồng dân cư trở thành đối tác chủ động trong thiết kế và giám sát, đảm bảo không gian sống phù hợp nhu cầu và nâng cao chất lượng cuộc sống. Chuyên gia và viện nghiên cứu có thể thử nghiệm mô hình mới, đánh giá tác động và kiến tạo chính sách dựa trên dữ liệu thực tế.
Cách lấy kinh tế tư nhân làm động lực phát triển chính là thông qua cơ chế đồng kiến tạo và khung thử nghiệm. Doanh nghiệp không phải chờ hướng dẫn hay phê duyệt từng bước mà được phép chủ động thử nghiệm dự án trong khung thử nghiệm an toàn, vừa tạo lợi nhuận vừa cung cấp dữ liệu, mô hình và kinh nghiệm cho hệ thống quy hoạch. Nhà nước đóng vai trò điều phối và khuyến khích, đưa ra các chính sách ưu tiên, cơ chế hỗ trợ tài chính, hạ tầng và kết nối các bên, để lợi ích tư nhân song hành với lợi ích cộng đồng và chiến lược phát triển vùng. Cách làm này biến doanh nghiệp thành động lực kiến tạo và thử nghiệm sáng tạo, thay vì chỉ là đối tượng tuân thủ hành chính, đồng thời giảm rủi ro và tăng tốc triển khai các dự án đô thị, nhà ở và hạ tầng chiến lược.
Như vậy, quy hoạch tích hợp linh hoạt vừa là công cụ khoa học – dữ liệu, vừa là công cụ chính sách – kinh tế, kết nối Nhà nước, tư nhân, chuyên gia và cộng đồng để tạo ra hệ sinh thái phát triển đô thị thông minh, sáng tạo và bền vững.
Trong mô hình quy hoạch tích hợp linh hoạt, TP.HCM sẽ vận hành một cơ chế đồng kiến tạo và thích ứng, nơi vai trò, trách nhiệm và quyền lợi của từng bên được phân định rõ ràng theo hai cấp chính quyền là thành phố và phường/xã. Ở tầng thành phố, UBND TP.HCM, Sở Quy hoạch – Kiến trúc, Sở Xây dựng, Sở Giao thông – Vận tải, Sở Tài nguyên – Môi trường, cùng các viện nghiên cứu, trường đại học chuyên ngành và các đơn vị tư vấn quy hoạch chuyên sâu, sẽ chịu trách nhiệm xây dựng Chương trình phát triển không gian toàn TP. Nội dung nghiên cứu gồm phân tích dữ liệu dân số, kinh tế, hạ tầng, môi trường, hành vi đô thị và nhu cầu xã hội; xác lập các kịch bản phát triển 10–20 năm; đề xuất các khu vực ưu tiên phát triển nhà ở, hạ tầng xanh, giao thông thông minh và không gian công cộng. Tầng thành phố cũng vận hành hệ thống dữ liệu mở, giám sát việc triển khai các dự án thử nghiệm tại phường/xã, và tổng hợp phản hồi từ cộng đồng, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý để cập nhật và điều chỉnh chương trình phát triển.
Ở tầng phường/xã, UBND phường hoặc xã cùng các tổ chức cộng đồng, doanh nghiệp địa phương, đơn vị tư vấn và các trường học, viện nghiên cứu tham gia trực tiếp vào việc thiết kế thích ứng và triển khai dự án thử nghiệm. Họ lập kế hoạch chi tiết cho từng khu vực, xác định các nhu cầu cụ thể về nhà ở, hạ tầng, không gian công cộng và dịch vụ xã hội. Công việc thực hiện gồm khảo sát thực địa, tổ chức hội đồng đồng kiến tạo với sự tham gia của người dân, doanh nghiệp, chuyên gia và các sở ngành liên quan, lập mô hình số hóa khu vực, mô phỏng kịch bản phát triển và đánh giá tác động kinh tế – xã hội. Phường/xã chịu trách nhiệm vận hành dữ liệu thu thập được từ dự án thử nghiệm, phản hồi lên UBND TP và Sở Quy hoạch – Kiến trúc để cập nhật chương trình phát triển tổng thể.
Vai trò của các sở ngành là cung cấp dữ liệu chuyên ngành, tiêu chí kỹ thuật và khung pháp lý cho cả thành phố và phường/xã. Viện nghiên cứu, trường đại học và đơn vị tư vấn chuyên môn thực hiện phân tích dữ liệu, mô phỏng, thiết kế thử nghiệm và đánh giá tác động. Các doanh nghiệp có thể triển khai dự án nhà ở, hạ tầng hay dịch vụ, đồng thời thử nghiệm các giải pháp sáng tạo trong khung thử nghiệm đô thị đã được UBND TP xác lập. Cộng đồng dân cư là đối tác chủ động, tham gia giám sát, đề xuất điều chỉnh và đánh giá tác động đến đời sống, không gian công cộng và tiện ích xã hội.
Như vậy, mỗi bên đều có trách nhiệm rõ ràng: thành phố làm chiến lược, định hướng, giám sát và cập nhật dữ liệu; phường/xã thực hiện thử nghiệm, thu thập dữ liệu và đồng kiến tạo; sở ngành, viện trường cung cấp chuyên môn và phương pháp; doanh nghiệp triển khai dự án thử nghiệm; cộng đồng tham gia đánh giá, phản hồi. Quyền lợi được chia đồng đều: thành phố có chương trình phát triển thực tiễn, phường/xã được chủ động điều phối và triển khai, doanh nghiệp khai thác cơ hội kinh doanh và thử nghiệm sáng tạo, cộng đồng có không gian sống phù hợp với nhu cầu thực tế.
Cơ chế này giải quyết được điểm nghẽn “xin – cho”, phân mảnh và chậm trễ”, biến quy hoạch thành một quy trình linh hoạt, thích ứng, đồng kiến tạo và dữ liệu minh bạch, đảm bảo TP.HCM phát triển đồng bộ, sáng tạo và bền vững, ngay cả trong bối cảnh biến động nhanh về kinh tế, xã hội và công nghệ.
KIẾN NGHỊ
VỀ VIỆC NGHIÊN CỨU, HÌNH THÀNH MỘT LOẠI HÌNH ĐỒ ÁN QUY HOẠCH MỚI
CÓ TÍNH CHIẾN LƯỢC, LINH HOẠT VÀ TÍCH HỢP HƠN CHO PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ VIỆT NAM
Kính gửi:
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Ban Kinh tế Trung ương
Ban Chỉ đạo Cải cách chính sách và thể chế phát triển quốc gia
Bộ Chính trị (qua Văn phòng Trung ương Đảng)
I. LÝ DO VÀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA KIẾN NGHỊ
Thưa các đồng chí,
Trong bối cảnh Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới – chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, hướng tới quốc gia công nghiệp phát triển và đô thị hóa bền vững, hệ thống quy hoạch đô thị hiện nay đang bộc lộ những giới hạn cơ bản về tư duy, phương pháp và cấu trúc thể chế.
Phần lớn các đồ án quy hoạch vẫn được xây dựng theo cách tuyến tính, hành chính và tĩnh, chủ yếu làm công cụ “kiểm soát phát triển”, chứ chưa trở thành công cụ điều phối và dẫn dắt phát triển.
Điều này dẫn đến tình trạng:
Quy hoạch thường đi sau thực tế, thiếu cơ chế điều chỉnh linh hoạt.
Các tầng quy hoạch (quốc gia – vùng – đô thị – dự án) thiếu liên thông và phản hồi hai chiều.
Quy hoạch trở nên nặng hình thức, thiếu sức sống, khó tích hợp các yếu tố mới như công nghệ, dữ liệu, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, hay những biến động xã hội – kinh tế nhanh.
Trong khi đó, trên thế giới, nhiều quốc gia tiên tiến (như Singapore, Hàn Quốc, Hà Lan, Đức, Pháp…) đã chuyển từ “quy hoạch cố định” sang mô hình quy hoạch tích hợp linh hoạt (Integrated Adaptive Planning System) – coi quy hoạch là một hệ thống sống, được cập nhật thường xuyên, gắn với dữ liệu và phản hồi xã hội, giúp điều phối chiến lược phát triển vùng – đô thị – con người – công nghiệp theo thời gian thực.
Việt Nam, nếu muốn bước vào giai đoạn “phát triển có tầm nhìn dài hạn và tự chủ thể chế”, cần một loại hình đồ án quy hoạch mới – vừa mang tính chiến lược quốc gia, vừa có tính mở, linh hoạt và học hỏi từ thực tiễn. II. NỘI DUNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG CỦA LOẠI HÌNH ĐỒ ÁN QUY HOẠCH MỚI
Kiến nghị Trung ương Đảng chỉ đạo nghiên cứu hình thành một loại hình đồ án quy hoạch chiến lược tích hợp linh hoạt, có thể gọi tạm là:
“Đồ án Quy hoạch Tích hợp Chiến lược – Linh hoạt Vùng và Đô thị”
(Integrated Strategic Adaptive Planning Framework – viết tắt ISAP Việt Nam)
1. Mục tiêu
Xây dựng một công cụ quy hoạch mang tính điều phối chiến lược quốc gia, giúp kết nối các tầng quy hoạch (chiến lược phát triển, quy hoạch vùng, quy hoạch đô thị, quy hoạch ngành và dự án).
Thiết lập cơ chế học hỏi – phản hồi – điều chỉnh liên tục, bảo đảm quy hoạch luôn thích ứng với thực tiễn kinh tế, xã hội, môi trường và công nghệ.
Chuyển từ “tư duy kiểm soát” sang tư duy hỗ trợ, kiến tạo và dẫn dắt phát triển.
2. Đặc trưng cơ bản
Tích hợp đa ngành, đa tầng: Liên kết giữa quy hoạch kinh tế, xã hội, đất đai, hạ tầng, môi trường, giao thông, dân cư, năng lượng và công nghệ.
Linh hoạt và thích ứng: Có cơ chế cập nhật định kỳ (3–5 năm) và cơ chế “điều chỉnh nhanh” (Adaptive Update) khi điều kiện thực tế thay đổi.
Dựa trên dữ liệu và mô phỏng số: Ứng dụng nền tảng dữ liệu không gian, mô hình đô thị số (Digital Twin), trí tuệ nhân tạo trong dự báo và đánh giá chính sách.
Mở và tham gia: Cho phép các viện nghiên cứu, doanh nghiệp, cộng đồng và tổ chức quốc tế cùng tham gia phản hồi, đề xuất và đóng góp dữ liệu.
Gắn với năng lực điều phối thể chế: Mỗi đồ án đi kèm cơ chế tổ chức, nhân sự, và khung vận hành cụ thể để đảm bảo tính thực thi.
3. Phạm vi áp dụng
Trước mắt, đề nghị triển khai thí điểm loại hình quy hoạch này tại TP.HCM mở rộng, Hà Nội và vùng đồng bằng sông Hồng, nơi đang chịu áp lực phát triển đô thị – công nghiệp – xã hội lớn nhất.
Sau giai đoạn thí điểm, tổng kết và nhân rộng thành một mô hình quốc gia về quy hoạch thích ứng tích hợp, áp dụng trong chiến lược phát triển quốc gia giai đoạn 2030–2050. III. ĐỀ XUẤT VỀ TỔ CHỨC VÀ CƠ CHẾ CHỈ ĐẠO
Thành lập Nhóm Nghiên cứu Chiến lược cấp Trung ương về “Đổi mới mô hình quy hoạch quốc gia”, do Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, cùng các viện nghiên cứu chiến lược, đại học và chuyên gia độc lập.
Tổ chức Diễn đàn quốc gia về Quy hoạch tích hợp linh hoạt, mời các địa phương lớn (TP.HCM, Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu) tham gia đối thoại, góp ý và xây dựng khung thử nghiệm.
Đề xuất xây dựng Nghị quyết của Bộ Chính trị hoặc Đề án cấp Nhà nước về “Đổi mới phương pháp và mô hình quy hoạch quốc gia theo hướng tích hợp – linh hoạt – chiến lược”, làm cơ sở để ban hành Luật Quy hoạch sửa đổi giai đoạn 2026–2028.
Phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ triển khai chương trình nghiên cứu trọng điểm quốc gia “Hệ thống dữ liệu và công cụ điều phối quy hoạch đô thị tích hợp”, làm nền tảng cho quy hoạch số hóa và thích ứng. Việc hình thành một loại hình đồ án quy hoạch mới – mang tính chiến lược, linh hoạt và tích hợp là yêu cầu tất yếu để đưa Việt Nam bước sang giai đoạn quy hoạch kiến tạo phát triển, chứ không chỉ quy hoạch quản lý.
Đây sẽ là công cụ giúp Đảng và Nhà nước:
Nâng cao năng lực điều phối chiến lược quốc gia;
Tăng tính chủ động – dự báo – thích ứng trong mọi cấp quy hoạch;
Xây dựng hệ thống phát triển đô thị và vùng động lực có khả năng học hỏi, tự điều chỉnh và phát triển bền vững.
Chúng tôi trân trọng kiến nghị Trung ương Đảng và Ban Kinh tế Trung ương xem xét, nghiên cứu và chỉ đạo xây dựng Đề án quốc gia về “Mô hình Quy hoạch Tích hợp Chiến lược – Linh hoạt”, coi đây là một đột phá thể chế nền tảng cho giai đoạn phát triển mới của Việt Nam.
Trân trọng kính trình.
#
Người gửi: TRƯƠNG NAM THUẬN Thời gian gửi: 24/10/2025
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Nguyên lý phát triển bền vững và ưu tiên con người
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các nền kinh tế tiên tiến không chỉ tập trung vào các chỉ tiêu tăng trưởng GDP, mà đặt con người và năng lực quốc gia làm trung tâm phát triển. Các quốc gia như Phần Lan, Đan Mạch, Hàn Quốc đã thể hiện rõ ràng rằng phúc lợi xã hội, chất lượng giáo dục, y tế, môi trường sống, và năng lực sáng tạo là nền tảng cho tăng trưởng dài hạn và bền vững.
Tư duy phát triển theo thành tích bề nổi thường dẫn đến chạy theo các chỉ số tạm thời, thiếu cơ sở nền tảng và ít chú trọng đến năng lực thực sự của con người và xã hội.
Đổi mới sáng tạo trong quản trị và phát triển kinh tế – xã hội
Nghị quyết 57 nhấn mạnh việc đổi mới sáng tạo mô hình, tư duy và cơ chế vận hành, nhằm phá bỏ các rào cản quan liêu, tăng khả năng thích ứng và thúc đẩy phát triển sáng tạo.
Việc chuyển hướng từ “thành tích bề nổi” sang “phúc lợi con người và năng lực quốc gia” là hiện thực hóa tư tưởng này, bởi nó khuyến khích chính quyền, doanh nghiệp và xã hội tập trung vào giá trị lâu dài, nâng cao năng lực nội tại của quốc gia, thay vì chạy theo số liệu hình thức.
Nguyên lý phát triển năng lực quốc gia
Năng lực quốc gia không chỉ là tiềm lực kinh tế, mà còn là năng lực sáng tạo, quản trị, khoa học công nghệ và con người. Tập trung vào năng lực quốc gia giúp đảm bảo khả năng thích ứng với biến động toàn cầu, tăng tính chủ động và giảm sự phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Bài học từ phát triển kinh tế – xã hội theo chỉ tiêu bề nổi
Thực tiễn ở nhiều địa phương cho thấy việc chạy theo các chỉ tiêu như tốc độ tăng trưởng GDP, số lượng dự án, hay số lượng công trình đã dẫn đến nhiều hệ quả tiêu cực: môi trường suy thoái, bất bình đẳng xã hội tăng, cơ sở hạ tầng kém chất lượng, và năng lực sáng tạo của con người chưa được phát triển đúng mức.
Một số dự án, mặc dù được công bố là thành tích lớn, nhưng thiếu tính bền vững và không tạo ra giá trị thực tế cho người dân.
Các thách thức đặt ra đối với năng lực quốc gia
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng và cạnh tranh trong nền kinh tế tri thức toàn cầu. Tập trung vào “thành tích bề nổi” không giúp nâng cao năng lực cạnh tranh, quản trị, hay sáng tạo của quốc gia.
Chất lượng nguồn nhân lực, năng lực nghiên cứu – phát triển, hạ tầng giáo dục và y tế vẫn cần được ưu tiên phát triển đồng bộ để đảm bảo nền tảng bền vững.
Cơ hội từ đổi mới sáng tạo
Thực hiện đổi mới sáng tạo theo tinh thần Nghị quyết 57 giúp xác định đúng mục tiêu phát triển, thiết lập cơ chế khuyến khích sáng tạo, hỗ trợ doanh nghiệp và con người phát triển năng lực nội tại, đồng thời tạo ra giá trị xã hội thực chất.
Các mô hình quốc tế về “phúc lợi con người gắn với năng lực quốc gia” chứng minh rằng tập trung vào con người và năng lực quốc gia sẽ tạo ra hiệu quả kinh tế – xã hội cao hơn, bền vững hơn, và là nền tảng để phát triển toàn diện, không chạy theo các thành tích hình thức.I. BỐI CẢNH VÀ YÊU CẦU CẤP THIẾT
Trong nhiều năm qua, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu ấn tượng về kinh tế – xã hội: tăng trưởng GDP ổn định, thu hút FDI mạnh mẽ, thu ngân sách đạt và vượt kế hoạch, tỷ lệ nợ công trong giới hạn an toàn, lạm phát được kiểm soát.
Tuy nhiên, thực tế đời sống xã hội lại đang phản ánh một nghịch lý rõ rệt:
Tỷ lệ thất nghiệp và việc làm không bền vững gia tăng.
Thu nhập khả dụng của người dân giảm, chi phí sinh hoạt, đặc biệt là nhà ở và giáo dục, ngày càng cao.
Giá bất động sản vẫn vượt xa khả năng chi trả của người lao động.
Sản xuất nội địa yếu, công nghiệp phụ trợ không phát triển, năng suất lao động tăng chậm.
Nông nghiệp và nông thôn vẫn thiếu bền vững, nông dân chịu rủi ro lớn.
Cải cách hành chính đạt chỉ tiêu nhưng chưa cải thiện được niềm tin và hiệu quả thực.
Những biểu hiện này cho thấy: tăng trưởng hiện nay chủ yếu là tăng trưởng “bề nổi”, dựa vào mở rộng tín dụng, đầu tư công và FDI, chứ chưa dựa vào năng lực nội sinh, sáng tạo con người, và hiệu quả sử dụng nguồn lực quốc gia.
Hậu quả là nền kinh tế tuy “động”, nhưng sức dân “yếu”; bộ máy báo cáo “hoàn thành”, nhưng niềm tin xã hội “giảm sút”.
Nếu không có một chuyển hướng chiến lược mang tính nền tảng, Việt Nam có nguy cơ rơi vào vòng luẩn quẩn: tăng trưởng ngắn hạn – suy giảm nội lực – tái cơ cấu nửa vời – và lặp lại bất ổn. I. LÝ DO CỦA SỰ CHUYỂN ĐỔI
Hạn chế của tư duy cục bộ và thành tích bề nổi
Hệ tư duy hiện nay vẫn còn tập trung vào các chỉ tiêu ngắn hạn, cục bộ, chạy theo các con số thống kê, báo cáo, hoặc hình thức công trình mà chưa quan tâm đủ đến giá trị thực chất và lâu dài cho con người.
Kết quả là:
Các quyết định phát triển mang tính chắp vá, manh mún, thiếu tầm nhìn liên vùng, liên ngành.
Hiệu quả đầu tư xã hội thấp, lãng phí nguồn lực.
Năng lực sáng tạo, năng lực con người chưa được phát triển tương xứng với tiềm năng và yêu cầu hội nhập quốc tế.
Xu hướng toàn cầu yêu cầu chuyển đổi
Thế giới đang bước vào kỷ nguyên kinh tế tri thức, đổi mới sáng tạo, và năng lực con người là tài sản cốt lõi của quốc gia.
Các quốc gia tiên tiến không còn đo lường thành công chỉ bằng tăng trưởng GDP hay số lượng dự án, mà bằng chất lượng cuộc sống, năng lực sáng tạo, và khả năng thích ứng với thay đổi.
Việt Nam cần bắt kịp xu hướng này để không tụt hậu, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt.
Tăng cường sức chống chịu và tính bền vững
Tập trung vào thành tích bề nổi làm tăng rủi ro: bất ổn xã hội, môi trường bị tổn hại, chất lượng nguồn nhân lực chưa được nâng cao.
Chuyển sang tư duy phúc lợi con người và năng lực quốc gia giúp tăng sức chống chịu, nâng cao năng lực nội tại, tạo nền tảng phát triển bền vững. II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC HIỆN NGAY
Thời điểm thuận lợi và áp lực cần hành động
Việt Nam đang ở giai đoạn hội nhập sâu rộng, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế tri thức đang diễn ra mạnh mẽ.
Nếu không chuyển hướng tư duy ngay, các chính sách, dự án, và nguồn lực sẽ tiếp tục bị phân tán, lãng phí, và Việt Nam sẽ tụt hậu so với các quốc gia tiên tiến.
Đòi hỏi từ người dân và xã hội
Người dân hiện nay yêu cầu chất lượng cuộc sống thực chất, mong muốn được tiếp cận giáo dục, y tế, cơ hội nghề nghiệp và môi trường sống tốt hơn.
Sự chuyển hướng tư duy sẽ giúp thực sự đáp ứng nhu cầu của con người, thay vì chỉ tạo ra các chỉ số đẹp trên giấy.
Khả năng tạo ra hiệu ứng đột phá theo Nghị quyết 57
Thực hiện theo tinh thần đổi mới sáng tạo mô hình và tư duy của Nghị quyết 57, chuyển hướng này sẽ:
Phá bỏ các rào cản quan liêu, cục bộ trong quản trị và phát triển.
Kích thích sáng tạo, phát huy năng lực thực chất của con người và tổ chức.
Tạo ra mô hình phát triển kinh tế – xã hội bền vững, đặt con người và năng lực quốc gia làm trung tâm. I. CƠ SỞ PHÁP LÝ HIỆN NAY
Hiến pháp và các nguyên tắc phát triển con người
Hiến pháp Việt Nam quy định quyền con người là trung tâm của mọi chính sách và phát triển xã hội; quyền được hưởng các dịch vụ y tế, giáo dục, an sinh, môi trường sống, và cơ hội phát triển năng lực cá nhân đều được bảo đảm.
Các luật liên quan đến phát triển kinh tế – xã hội, lao động, giáo dục, y tế cũng đều khẳng định mục tiêu nâng cao phúc lợi con người và phát triển năng lực quốc gia.
Các nghị quyết và chiến lược phát triển quốc gia
Nghị quyết 57 về đổi mới sáng tạo đã xác lập tư duy phát triển dựa trên đổi mới mô hình, tư duy và cơ chế vận hành, khuyến khích tập trung vào giá trị thực chất, năng lực nội tại của con người và tổ chức.
Các chiến lược quốc gia khác, như Chiến lược phát triển giáo dục, Chiến lược phát triển nguồn nhân lực, cũng nhấn mạnh vai trò của phát triển con người và năng lực sáng tạo.
Khung pháp lý cho chính sách phúc lợi và phát triển năng lực
Luật An sinh xã hội, Luật Giáo dục, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Đổi mới sáng tạo… cung cấp cơ sở pháp lý cho các chính sách hướng tới nâng cao năng lực con người và quốc gia.
Tuy nhiên, các văn bản này thường tách rời giữa các lĩnh vực (giáo dục, y tế, lao động, khoa học công nghệ), dẫn đến thiếu liên kết chiến lược. II. NGUYÊN NHÂN CHƯA TẠO CHIỀU SÂU VÀ HIỆU QUẢ
Chưa có hệ thống pháp lý đồng bộ và định lượng
Hiện nay, pháp luật quy định các quyền, chính sách và mục tiêu nhưng thiếu các cơ chế đo lường, giám sát, và đánh giá hiệu quả thực chất.
Việc tập trung vào báo cáo số lượng, thành tích hình thức vẫn chi phối, làm giảm tính định hướng thực chất của pháp luật.
Thiếu cơ chế liên kết giữa phát triển con người và năng lực quốc gia
Các luật và chính sách chưa kết nối đủ chặt chẽ giữa giáo dục, y tế, lao động, nghiên cứu khoa học, và phát triển năng lực sáng tạo.
Hệ quả là, đầu tư vào con người và năng lực quốc gia chưa đạt được hiệu quả tổng hợp, mà vẫn cục bộ và manh mún.
Chưa đủ cơ chế khuyến khích đổi mới tư duy và mô hình vận hành
Pháp luật hiện nay chưa đặt đủ động lực cho các cơ quan, địa phương, doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi tư duy từ “thành tích bề nổi” sang “giá trị thực chất”.
Thiếu cơ chế thưởng phạt, chưa đủ khuyến khích sáng tạo, thử nghiệm chính sách mới, dẫn đến việc triển khai vẫn còn hình thức, thiếu chiều sâu.
Chưa gắn kết với tinh thần đổi mới sáng tạo quốc gia
Dù Nghị quyết 57 đã định hướng đổi mới sáng tạo, nhưng các văn bản pháp lý hiện hành chưa cụ thể hóa thành cơ chế pháp lý bắt buộc, chưa đủ mạnh để thay đổi cách vận hành tư duy, tổ chức, và chính sách. II. NHẬN DIỆN CĂN NGUYÊN CỦA TĂNG TRƯỞNG BỀ NỔI
Thước đo phát triển còn thiên về chỉ tiêu hành chính và tài chính (GDP, thu ngân sách, tín dụng), chưa phản ánh phúc lợi và năng lực thật của người dân.
Cơ cấu tín dụng và đầu tư công vẫn chảy mạnh vào khu vực tài sản, đất đai, và các tập đoàn lớn; trong khi doanh nghiệp nhỏ, hợp tác xã, khu vực sản xuất và đổi mới sáng tạo không được tiếp cận vốn.
Giáo dục – đào tạo vẫn nặng về bằng cấp, thiếu gắn kết với nhu cầu thị trường lao động và vùng kinh tế.
Chính sách công nghiệp còn thiên về thu hút vốn, chưa có điều kiện ràng buộc về chuyển giao công nghệ, tỷ lệ nội địa hóa và tạo việc làm.
Cơ chế hành chính và văn hóa quản trị vẫn nặng tính chỉ đạo – báo cáo, thiếu đánh giá tác động, thiếu cơ chế thử nghiệm và học hỏi từ thực tiễn.
III. QUAN ĐIỂM CHIẾN LƯỢC
Đề nghị Bộ Chính trị chỉ đạo ban hành Nghị quyết chuyên đề về “Phát triển có chiều sâu và năng lực nội sinh của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2026–2035”, với các quan điểm sau:
Lấy con người làm trung tâm của phát triển – mọi chính sách kinh tế đều phải được lượng hóa qua chỉ tiêu về việc làm bền vững, thu nhập khả dụng, và phúc lợi xã hội.
Lấy năng lực nội sinh làm nền tảng tăng trưởng – chuyển trọng tâm từ “vốn và đất” sang “khoa học, công nghệ, giáo dục và năng suất”.
Lấy minh bạch, trách nhiệm và đánh giá tác động xã hội làm nguyên tắc chủ đạo trong quản trị công.
Kết hợp hài hòa giữa ổn định vĩ mô và phát triển dài hạn, đảm bảo không hy sinh chất lượng sống và năng lực quốc gia vì mục tiêu tăng trưởng ngắn hạn.
IV. NĂM CHUYỂN HÓA CHIẾN LƯỢC ĐỀ NGHỊ BỘ CHÍNH TRỊ CHỈ ĐẠO TRIỂN KHAI
1. Thay đổi hệ thống thước đo phát triển quốc gia
Ban hành Bộ chỉ số phát triển con người Việt Nam mở rộng, bao gồm:
Thu nhập khả dụng bình quân đầu người;
Tỷ lệ việc làm bền vững;
Mức độ nội địa hóa sản xuất;
Mức độ hài lòng của người dân với dịch vụ công;
Chỉ số bất bình đẳng xã hội.
Giao Bộ KHĐT, Tổng cục Thống kê phối hợp Bộ LĐTBXH xây dựng cơ chế đo lường và công bố định kỳ.
Các chỉ tiêu này sẽ là căn cứ phân bổ ngân sách và đánh giá kết quả điều hành của các bộ, ngành, địa phương.
2. Cơ cấu lại tín dụng và đầu tư công hướng vào tạo việc làm và chuỗi giá trị nội địa
Thiết lập chương trình tín dụng phát triển bền vững dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã, các mô hình sản xuất gắn chuỗi nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ địa phương.
Áp dụng cơ chế ưu đãi tín dụng có điều kiện: chỉ giải ngân khi chứng minh được khả năng tạo việc làm và giá trị gia tăng trong nước.
Tăng đầu tư công cho hạ tầng logistics, chế biến nông sản, khoa học công nghệ.
Kiểm soát dòng vốn chảy vào thị trường đất bằng thuế giao dịch lũy tiến và công khai sở hữu bất động sản.
3. Đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo nghề theo nhu cầu vùng kinh tế
Chuyển từ “đào tạo theo chương trình” sang “đào tạo theo nhu cầu thị trường”.
Xây dựng mạng lưới trường nghề – doanh nghiệp – chính quyền địa phương, có cam kết đào tạo và tuyển dụng.
Hỗ trợ chuyển đổi nghề bằng voucher đào tạo cho lao động yếu thế, lao động nông thôn, lao động chuyển ngành.
4. Xây dựng chính sách công nghiệp có điều kiện và chuỗi giá trị nội địa
Áp dụng ưu đãi FDI có điều kiện, gắn với tỷ lệ nội địa hóa, chuyển giao công nghệ, và đào tạo lao động Việt Nam.
Thành lập Quỹ phát triển công nghiệp phụ trợ quốc gia, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào R&D, máy móc, tự động hóa.
Ưu tiên phát triển 5 ngành chiến lược: chế biến nông sản, điện tử phụ trợ, thiết bị năng lượng tái tạo, công nghiệp dược – sinh học, và vật liệu xây dựng xanh.
5. Đổi mới cơ chế quản trị công và văn hóa chính sách
Ban hành quy định về đánh giá tác động xã hội bắt buộc cho mọi dự án đầu tư công, chính sách lớn.
Thiết lập cơ chế thử nghiệm chính sách (sandbox) cho các địa phương có sáng kiến, cho phép “làm khác” trong khuôn khổ kiểm soát.
Gắn đánh giá, khen thưởng cán bộ lãnh đạo địa phương với kết quả thực về phúc lợi dân cư, việc làm, và niềm tin xã hội, thay vì chỉ tiêu hành chính.
Thúc đẩy cơ chế tham vấn cộng đồng và doanh nghiệp trong quá trình hoạch định và điều chỉnh chính sách.
V. TÁC ĐỘNG DỰ KIẾN
Tăng tỷ lệ việc làm bền vững từ 45% lên 60% vào năm 2030.
Giảm tỷ trọng FDI trong xuất khẩu từ 72% xuống 55%, đồng thời tăng tỷ lệ nội địa hóa từ 30% lên 50%.
Giảm chênh lệch thu nhập giữa 20% hộ giàu nhất và 20% hộ nghèo nhất từ 9 lần xuống còn 6 lần.
Nâng chỉ số hài lòng của người dân với dịch vụ công lên mức 85%.
Hình thành ít nhất 10 cụm công nghiệp – chuỗi giá trị nội địa tại các vùng kinh tế trọng điểm.
VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kính đề nghị Bộ Chính trị xem xét ban hành Nghị quyết chuyên đề về “Phát triển có chiều sâu và năng lực nội sinh của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2026–2035”,
đồng thời chỉ đạo:
Giao Ban Kinh tế Trung ương chủ trì xây dựng khung đề án tổng thể;
Giao Bộ Kế hoạch & Đầu tư phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ LĐTBXH, Bộ GDĐT và Ngân hàng Nhà nước xây dựng các chương trình hành động cụ thể;
Giao Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể tổ chức diễn đàn tham vấn xã hội rộng rãi để hình thành đồng thuận xã hội về “phát triển có chiều sâu”.
Thưa Bộ Chính trị,
Một quốc gia không thể phát triển chỉ bằng những con số;
một dân tộc không thể hạnh phúc nếu người dân phải sống trong lo toan giữa “báo cáo tốt” và “đời sống khó khăn”.
Thời điểm này, Việt Nam cần một bước chuyển tư duy và chính sách mang tính nền tảng –
từ “tăng trưởng bề nổi” sang phát triển có chiều sâu, nhân văn và bền vững,
đặt con người, tri thức và năng lực nội sinh làm trung tâm.
Khi đó, tăng trưởng sẽ không chỉ là con số,
mà là sức mạnh thật sự của một dân tộc biết sống, biết sáng tạo và biết hướng tới tương lai. 1. GDP tăng trưởng – nhưng tăng cho ai, và bằng gì?
GDP chỉ phản ánh giá trị sản xuất – giao dịch – chi tiêu được ghi nhận, chứ không phản ánh phúc lợi thực tế hay chất lượng tăng trưởng. Ở Việt Nam, GDP tăng chủ yếu nhờ ba động lực:
Đầu tư công và xây dựng cơ sở hạ tầng,
Xuất khẩu của các khu công nghiệp có vốn FDI,
Mở rộng tín dụng và tiêu dùng.
Nhưng trong đó, phần lớn giá trị gia tăng lại không nằm trong túi người dân Việt Nam.
Các tập đoàn FDI tạo ra xuất khẩu lớn nhưng lợi nhuận chủ yếu được chuyển ra nước ngoài; doanh nghiệp trong nước chỉ hưởng phần nhỏ gia công, lắp ráp.
Đầu tư công tạo ra công trình, nhưng không tạo ra việc làm bền vững và sinh kế ổn định, vì ít lan tỏa ra khu vực tư nhân nhỏ, hộ gia đình, hay lao động nông thôn.
Nói cách khác, GDP tăng – nhưng thu nhập khả dụng của người dân không tăng tương ứng, thậm chí bị co lại bởi chi phí sinh hoạt, giá nhà, và lạm phát ẩn.
2. Ngân hàng tăng trưởng tín dụng – nhưng tiền chảy đi đâu?
Các báo cáo ngân hàng nói tín dụng tăng 9–10%, nợ xấu được kiểm soát. Nhưng hãy nhìn kỹ:
Tín dụng chủ yếu chảy vào khoanh nợ cũ, tái cơ cấu, hoặc các dự án lớn, bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp.
Khu vực doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh cá thể, nông nghiệp – nơi tạo nhiều việc làm nhất – lại khó vay vốn, bị chặn bởi điều kiện tài sản thế chấp.
Hơn nữa, các doanh nghiệp đang “sống sót” bằng vòng quay nợ ngắn hạn, không phải bằng lợi nhuận thật.
Khi dòng tín dụng không đi vào sản xuất hiệu quả, mà đi vào thị trường tài sản (đất đai, chứng khoán, trái phiếu…), thì GDP có thể vẫn “đẹp”, nhưng đời sống thực lại co hẹp: việc làm ít, thu nhập thấp, bất bình đẳng gia tăng.
3. Thuế “thu đủ”, ngân sách “hoàn thành” – nhưng sức dân cạn kiệt
Ngân sách thu tốt không có nghĩa dân giàu. Trái lại, trong nhiều năm, tỷ trọng thuế gián thu (VAT, thuế xăng dầu, phí lệ phí) chiếm phần lớn, tức là thu từ tiêu dùng của người dân, không phải từ lợi nhuận sản xuất.
Các doanh nghiệp FDI được ưu đãi thuế, các tập đoàn lớn có kỹ năng tối ưu thuế; còn người dân, hộ nhỏ, doanh nghiệp nhỏ phải gánh thuế trực tiếp và gián tiếp cao.
Kết quả là Nhà nước có thể “thu đủ” – nhưng nền kinh tế dưới dân thì thiếu sức mua, thiếu dòng tiền, thiếu tích lũy.
Cái “đủ” của ngân sách là cái “thiếu” của người dân.
4. FDI tăng mạnh – nhưng nền sản xuất nội địa yếu
FDI là cần thiết, nhưng khi toàn bộ chuỗi giá trị vẫn do doanh nghiệp nước ngoài kiểm soát, thì tăng vốn FDI không đồng nghĩa tăng năng lực quốc gia.
Người Việt làm thuê, đất Việt cho thuê, còn giá trị thặng dư bị chuyển ra ngoài.
Nền kinh tế “phụ thuộc đầu tư ngoại” dễ tăng GDP ngắn hạn, nhưng không tạo năng lực nội sinh, không tạo công nghệ, không tạo thị trường nội địa mạnh, nên người dân vẫn yếu thế.
5. Thực tế thất nghiệp và giá nhà phản ánh “chất lượng tăng trưởng thấp”
Tỷ lệ thất nghiệp, việc làm bán thời gian, lao động tự do tăng là dấu hiệu nền kinh tế không hấp thụ được lực lượng lao động.
Còn giá bất động sản cao lại do dòng tiền tài chính thừa nhưng không có lối ra sản xuất, nên dồn vào đất, nhà, đẩy giá lên cao gấp nhiều lần thu nhập trung bình.
Điều này khiến toàn xã hội bị khóa chặt trong vòng xoáy nợ – đất – tín dụng, còn sản xuất thực và sinh kế con người bị gạt ra rìa.
6. Nghịch lý “mọi chỉ tiêu hoàn thành – nhưng cuộc sống vẫn khó”
Đó là vì hệ thống thống kê, đánh giá và báo cáo hiện nay được thiết kế để đo lường hoạt động quản lý, không phải chất lượng cuộc sống con người.
Báo cáo “tốt” là về tiến độ, giải ngân, chỉ tiêu, chứ không phải về việc làm thực tế, thu nhập, mức sống, niềm tin xã hội.
Chúng ta đang đo sự vận hành của bộ máy, chứ chưa đo hiệu quả của cuộc sống.
7. Kết luận: nền kinh tế tăng trưởng “bề mặt”, chưa chuyển hóa thành “năng lực sống”
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay giống như một cơ thể được bơm thuốc kích thích – GDP tăng, tín dụng tăng, thu ngân sách đủ – nhưng cơ bắp thật yếu, hệ miễn dịch suy kiệt.
Chúng ta chưa chuyển từ nền kinh tế dựa trên vốn – đất – ưu đãi – nợ, sang nền kinh tế dựa trên sáng tạo – năng suất – con người – giá trị nội sinh.
Vì thế, tăng trưởng thống kê không chuyển hóa thành phúc lợi xã hội, và phát triển vĩ mô không tạo ra hạnh phúc vi mô.1. Ngành công nghiệp – tăng trưởng sản lượng, nhưng không tăng giá trị nội sinh
Các báo cáo thường nêu: sản xuất công nghiệp tăng, xuất khẩu tăng, nhà máy mở rộng.
Nhưng thực tế, phần lớn là gia công – lắp ráp – phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu.
Ví dụ: điện thoại, máy tính, dệt may, da giày – tất cả đều có tỷ lệ nội địa hóa thấp, từ 5–30%.
Doanh thu lớn, nhưng lợi nhuận gốc (giá trị thặng dư) thuộc về thương hiệu và công nghệ nước ngoài.
Các khu công nghiệp rầm rộ, nhưng lao động Việt chỉ đứng dây chuyền, làm việc cường độ cao, thu nhập thấp.
Hệ quả: công nghiệp tăng trưởng “sản lượng”, nhưng nền sản xuất quốc gia vẫn yếu, không làm chủ chuỗi cung ứng, không tích lũy được năng lực kỹ thuật.
Đó là “công nghiệp bề nổi”: toàn nhà xưởng, máy móc, nhưng không có trí tuệ và công nghệ Việt Nam.
2. Ngành nông nghiệp – xuất khẩu cao, nhưng nông dân vẫn nghèo
Nông nghiệp Việt Nam thường được báo cáo “đạt kỷ lục xuất khẩu 50 tỷ USD”, nhưng đằng sau là nghịch lý: nông dân vẫn phải bán sản phẩm với giá rẻ, phụ thuộc thương lái và thị trường thế giới.
Cấu trúc sản xuất manh mún, thiếu liên kết vùng, thiếu hạ tầng chế biến và logistics.
Giá trị nông sản xuất khẩu phần lớn nằm ở khâu đóng gói – thương hiệu – phân phối, mà Việt Nam chưa làm được.
Nông nghiệp “bề nổi” là nông nghiệp của sản lượng, mùa vụ, thành tích xuất khẩu, chứ không phải của chất lượng, bền vững, sinh kế và giá trị chuỗi.
Nông dân vẫn làm nhiều, nhưng không làm chủ được giá trị.
3. Ngành giáo dục – nhiều trường, nhiều bằng, nhưng thiếu năng lực thực
Giáo dục hiện nay thể hiện rõ nhất căn bệnh “bề nổi”:
Chú trọng điểm số, thành tích, xếp hạng,
Nhiều dự án trường quốc tế, nhưng thiếu chương trình đào tạo công dân thực học, thực hành,
Sinh viên ra trường “nhiều bằng, ít kỹ năng”, doanh nghiệp phải đào tạo lại.
Càng học, nhiều người càng rời xa thực tế, bởi giáo dục không gắn với đời sống, không dạy người ta biết làm, biết sống, biết sáng tạo.
Chúng ta tạo ra thế hệ “học để thi”, chứ không phải “học để sống”.
Giáo dục bề nổi khiến xã hội có vẻ tri thức hơn – nhưng năng lực lao động, năng lực phản biện, và năng lực đổi mới lại tụt hậu.
4. Ngành y tế – hiện đại hóa cơ sở vật chất, nhưng suy yếu niềm tin xã hội
Y tế cũng được báo cáo là “cải thiện chất lượng khám chữa bệnh”, “đầu tư trang thiết bị”, “đẩy mạnh chuyển đổi số”.
Nhưng thực tế, người dân phải chi trả cao, bệnh viện quá tải, bác sĩ giỏi rời bỏ hệ thống công, thuốc men bị đẩy giá, niềm tin của người bệnh suy giảm.
Cơ sở vật chất có thể mới, nhưng cơ chế vận hành vẫn cũ, nhân tâm bị bào mòn, y đức bị thử thách.
Y tế bề nổi là y tế của “chỉ tiêu giường bệnh, số ca phẫu thuật”, nhưng thiếu chăm sóc, nhân văn, niềm tin và hệ thống hỗ trợ cộng đồng.
5. Ngành văn hóa – nhiều sự kiện, nhưng ít giá trị tinh thần
Mỗi năm, hàng ngàn lễ hội, cuộc thi, chương trình nghệ thuật được tổ chức.
Nhưng phần lớn mang tính phong trào, hình thức, thiếu chiều sâu văn hóa và bản sắc.
Người làm văn hóa bị đẩy vào cơ chế “báo cáo thành tích”, “giữ ngân sách”, “hoàn thành chỉ tiêu”, thay vì sáng tạo thực sự.
Văn hóa “bề nổi” khiến xã hội rực rỡ bên ngoài, nhưng trống rỗng bên trong, bởi con người ngày càng mệt mỏi, hoang mang, thiếu chỗ dựa tinh thần.
6. Ngành bất động sản – tăng trưởng ảo, giá trị thực tụt dốc
Bất động sản là biểu tượng của nền kinh tế bề nổi: giá cao, giao dịch lớn, lợi nhuận ảo, trong khi giá trị sử dụng thấp.
Đất bị găm giữ như hàng hóa đầu cơ, không còn là nền tảng sinh kế và phát triển xã hội.
Các dự án hoành tráng mọc lên, nhưng thiếu người ở, thiếu hạ tầng xã hội, thiếu tiện ích sống.
Bất động sản trở thành “máy in tiền cho một số nhóm nhỏ”, nhưng gánh nặng nợ và giá nhà đè lên cả thế hệ trẻ.
Nó làm méo mó cấu trúc xã hội, làm nghẹt dòng vốn sản xuất.
7. Ngành hành chính – cải cách thủ tục, nhưng chưa cải cách tư duy
Báo cáo hành chính nói “cải cách mạnh mẽ, cắt giảm thủ tục, tăng chỉ số PCI, PAPI…”.
Nhưng doanh nghiệp và người dân vẫn mệt mỏi vì quy trình rườm rà, công chức né tránh trách nhiệm, sợ sai, thiếu chủ động.
Cải cách hành chính hiện nay vẫn “bề nổi” vì cải cách kỹ thuật mà không cải cách tư tưởng: chưa chuyển từ “quản lý” sang “phục vụ”.
Khi bộ máy vẫn đo bằng số lượng văn bản, chỉ tiêu, không đo bằng sự hài lòng và hiệu quả xã hội, thì “cải cách” vẫn chỉ là hình thức.
8. Ngành khoa học – nhiều đề tài, ít ứng dụng
Số lượng đề tài nghiên cứu, công bố khoa học tăng; nhưng rất ít công trình được ứng dụng vào thực tế, không gắn với doanh nghiệp hay quy hoạch phát triển vùng.
Kinh phí nghiên cứu bị chia nhỏ, cơ chế tài chính nặng tính thủ tục, nhà khoa học phải “viết cho đủ, báo cáo cho đúng” hơn là “làm cho thật”.
Khoa học bề nổi tạo ra “thành tích giấy”, nhưng không tạo năng lực đổi mới quốc gia.
9. Ngành truyền thông – nhiều tin, ít sự thật
Thông tin bùng nổ, mạng xã hội sôi động, báo chí nhiều trang, nhiều bản tin – nhưng phần lớn là tin giật gân, giải trí, bề mặt, thiếu chiều sâu phân tích.
Truyền thông bề nổi khiến xã hội bị nhiễu loạn thông tin, mất phương hướng giá trị, không còn khả năng nhận diện đâu là thật – đâu là giả, đâu là bản chất – đâu là hình thức.
10. Xã hội nói chung – sống nhanh, tiêu thụ nhiều, nhưng thiếu hạnh phúc
Đó là hậu quả tổng hợp của tất cả các “bề nổi” trên:
Con người bị cuốn vào chạy theo hình thức,
Giá trị vật chất lấn át giá trị tinh thần,
Xã hội tiêu thụ nhiều hơn sáng tạo,
Niềm tin tập thể suy giảm,
Mỗi cá nhân thấy mệt mỏi, cô đơn, thiếu phương hướng sống.
Chúng ta tưởng mình đang phát triển, nhưng thực ra đang trượt trên bề mặt của chính sự phát triển đó.
11. Bản chất của “bề nổi” là gì?
Bề nổi là khi chúng ta lấy kết quả hành chính làm thước đo thay vì chất lượng cuộc sống.
Là khi chúng ta sợ sai hơn là sợ không thật.
Là khi sự vận hành của hệ thống quan trọng hơn mục tiêu con người mà nó phục vụ.
Và bề nổi là khi chúng ta nói về tăng trưởng mà không nói về hạnh phúc; nói về chỉ tiêu mà không nói về niềm tin; nói về dự án mà không nói về đời sống.
Nếu nói ngắn gọn:
Xã hội bề nổi là xã hội biết báo cáo mọi thứ đang tốt, trừ chính con người của nó.Để thoát khỏi vòng xoáy của “tăng trưởng bề nổi”, cần một bước chuyển tinh thần và thể chế: từ đo lường thành tích hành chính sang đo lường phúc lợi con người và năng lực quốc gia; từ tác động ngắn hạn sang tác động dài hạn; từ tập trung vào vốn và đất sang tập trung vào năng suất, tri thức và con người. Điều này không phải là câu khẩu hiệu mà là một lộ trình chính sách cụ thể, gồm năm chuyển hóa căn bản.Việt Nam hiện đang ở giai đoạn phát triển mà tăng trưởng kinh tế nhiều khi chỉ phản ánh trên giấy tờ: GDP tăng, tín dụng tăng, đầu tư công cao, FDI lớn… nhưng phúc lợi con người, năng lực nội sinh quốc gia, và niềm tin xã hội chưa thực sự cải thiện. Đây chính là biểu hiện của tăng trưởng bề nổi, nơi các chỉ tiêu hành chính và tài chính chi phối chính sách, còn đời sống và năng lực thực chất của người dân chưa được đo lường và cải thiện tương xứng.
Để thoát khỏi vòng xoáy này, cần một bước chuyển căn bản trong tư duy và chính sách, theo hướng:
Lấy con người và năng lực quốc gia làm trung tâm của mọi quyết định phát triển.
Tái định vị tăng trưởng từ vốn – đất – ưu đãi sang tri thức, sáng tạo và năng suất lao động, đảm bảo giá trị nội sinh tăng lên.
Đổi mới quản trị công: minh bạch, đánh giá tác động, tham vấn xã hội, thí điểm chính sách có kiểm soát, gắn trách nhiệm với kết quả thực.
Phát triển bền vững và cân bằng giữa mục tiêu dài hạn và ổn định vĩ mô, đảm bảo không hy sinh đời sống, sức khỏe, và năng lực con người vì các chỉ tiêu ngắn hạn.
Nếu được triển khai đồng bộ, các chuyển hóa này sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng thực chất, bền vững, và toàn diện, nơi GDP đi kèm với phúc lợi, việc làm ổn định, và năng lực nội sinh, tạo ra nền tảng vững chắc cho quốc gia và đời sống người dân. NHỮNG VIỆC HÀNH ĐỘNG CẦN LÀM NGAY
Cải cách thước đo phát triển
Ban hành bộ chỉ số phúc lợi con người và năng lực quốc gia, bao gồm: thu nhập khả dụng, tỷ lệ việc làm bền vững, nội địa hóa sản xuất, hài lòng dịch vụ công, chỉ số bất bình đẳng.
Liên thông dữ liệu hành chính và khảo sát hộ gia đình định kỳ để đo lường chính xác, công khai kết quả theo địa phương.
Tái cấu trúc tín dụng và đầu tư công
Ưu tiên vốn cho doanh nghiệp nhỏ, hợp tác xã, chuỗi giá trị nội địa, sản xuất – sáng tạo – việc làm.
Áp dụng cơ chế tín dụng và ưu đãi có điều kiện, gắn với kết quả tạo việc làm, giá trị gia tăng trong nước.
Kiểm soát dòng vốn vào bất động sản và tài sản tài chính để tránh đầu cơ và méo mó kinh tế.
Đổi mới giáo dục và đào tạo nghề
Chuyển từ đào tạo theo chương trình sang đào tạo theo nhu cầu thị trường và vùng kinh tế.
Xây dựng liên kết trường nghề – doanh nghiệp – chính quyền địa phương với cam kết đào tạo và tuyển dụng.
Hỗ trợ chuyển đổi nghề và đào tạo kỹ năng cho lao động yếu thế, lao động nông thôn, lao động chuyển ngành.
Xây dựng chính sách công nghiệp có điều kiện và chuỗi giá trị nội địa
Ưu đãi FDI gắn với chuyển giao công nghệ, tỷ lệ nội địa hóa và đào tạo lao động Việt Nam.
Thành lập quỹ phát triển công nghiệp phụ trợ, hỗ trợ R&D, máy móc, tự động hóa.
Ưu tiên phát triển các ngành chiến lược: chế biến nông sản, điện tử phụ trợ, năng lượng tái tạo, dược – sinh học, vật liệu xanh.
Đổi mới quản trị công và văn hóa chính sách
Thiết lập cơ chế đánh giá tác động xã hội bắt buộc, tham vấn cộng đồng, thử nghiệm chính sách (sandbox).
Gắn kết đánh giá, khen thưởng cán bộ lãnh đạo với kết quả thực về phúc lợi, việc làm, niềm tin xã hội.
Thay đổi văn hóa chính sách từ “sợ sai” sang “sẵn sàng thử nghiệm, học hỏi và sửa sai”.
Thực hiện lộ trình chuyển hóa theo giai đoạn
Ngắn hạn (1–2 năm): Thay thước đo và thử nghiệm một số chính sách tín dụng, ưu tiên các chương trình tạo việc làm.
Trung hạn (3–5 năm): Tái cấu trúc giáo dục, phát triển chuỗi giá trị nội địa, nâng cao kỹ năng lao động.
Dài hạn (5–15 năm): Thay đổi toàn diện văn hóa quản trị công, hoàn thiện bộ chỉ số phát triển con người, nâng cao năng lực nội sinh quốc gia.
Chuyển hóa 1 — Thay thước đo: từ GDP và chỉ tiêu tài chính sang bộ chỉ số phúc lợi, việc làm và năng lực nội sinh.
GDP và các chỉ tiêu tài chính là thông số cần thiết nhưng không đủ. Nhà nước cần sớm đưa vào hệ thống đánh giá quốc gia một bộ chỉ số toàn diện: thu nhập khả dụng theo hộ, tỉ lệ việc làm bền vững (đã được chuẩn hóa — ví dụ việc làm đầy giờ có hợp đồng và bảo hiểm), tỉ lệ lao động làm việc trong chuỗi giá trị nội địa (tức phần nội địa hóa), độ tiếp cận dịch vụ công cơ bản theo chuẩn, và chỉ số bất bình đẳng địa phương. Những chỉ số này phải trở thành tiêu chí phân bổ ngân sách, đánh giá nhiệm kỳ và lựa chọn ưu tiên chính sách. Về phương pháp, cần liên thông dữ liệu hành chính với điều tra hộ định kỳ, dùng mẫu đại diện, và công bố theo đơn vị hành chính để minh bạch. Khi chỉ tiêu thay đổi, hành vi của bộ máy sẽ thay đổi: thay vì chạy giải ngân cho đạt tiến độ, người làm chính sách sẽ cân nhắc tác động đến việc làm, thu nhập và năng lực lâu dài.
Chuyển hóa 2 — Tái cấu trúc tín dụng và tài chính công: ưu tiên vốn cho việc làm bền vững và chuỗi giá trị nội địa.
Tín dụng tăng nhưng chảy lệch vào tài sản và tái cấu trúc nợ. Chính sách tín dụng phải hướng tới các cửa ra cho doanh nghiệp nhỏ và sản xuất tạo giá trị. Cụ thể: (1) thiết lập chương trình tín dụng theo kết quả (outcome-based lending) cho các hợp tác xã, doanh nghiệp vừa và nhỏ mà bằng chứng cho thấy tăng việc làm và tăng nội địa hóa; (2) phát triển quỹ mạo hiểm công-cộng để tài trợ cho doanh nghiệp chuyển giao công nghệ, sản xuất phụ trợ; (3) điều chỉnh ưu đãi thuế để khuyến khích đầu tư vào khâu chế biến, logistics, R&D nội địa thay vì đầu cơ bất động sản; (4) kiểm soát dòng vốn vào thị trường đất bằng thuế giao dịch lũy tiến và minh bạch sở hữu để giảm đầu cơ. Khi vốn có “lồng” điều kiện tạo công ăn việc làm và gia tăng chuỗi giá trị nội địa, tác động của tăng tín dụng sẽ hiện hữu trong đời sống.
Chuyển hóa 3 — Tái định vị giáo dục và đào tạo hướng nghề theo nhu cầu thị trường và sáng tạo địa phương.
Hệ thống giáo dục hiện tập trung vào bằng cấp và điểm số. Để tạo ra lực lượng lao động hấp thụ được nền sản xuất chất lượng cao, cần ba việc đồng thời: (1) mở rộng đào tạo nghề theo vùng, liên kết doanh nghiệp — trường nghề — chính quyền địa phương với hợp đồng đào tạo có cam kết tuyển dụng; (2) đổi mới chương trình đại học theo mô-đun thực hành bắt buộc, khuyến khích thực tập có trả lương; (3) thiết kế chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề cho lao động từ các ngành suy giảm (ví dụ nông nghiệp nhỏ, lao động phi chính thức) bằng voucher đào tạo, khuyến khích tự tạo việc làm. Việc tập trung vào kỹ năng có thể nhanh chóng chuyển thành thu nhập thực tế cho người lao động, giảm thất nghiệp ẩn và nâng cao năng suất.
Chuyển hóa 4 — Xây dựng chuỗi giá trị nội địa và chính sách công nghiệp có chủ đích (industrial policy có điều kiện).
FDI nên được tuyển chọn theo khả năng chuyển giao công nghệ và nâng cao nội địa hóa, không chỉ tuyển theo số vốn. Nhà nước cần áp dụng chính sách kết hợp: ưu đãi có điều kiện, ưu đãi kéo dài phụ thuộc vào tỉ lệ mua sắm nội địa, đào tạo lao động địa phương, và liên kết với doanh nghiệp Việt. Song song đó, hỗ trợ doanh nghiệp phụ trợ nội địa thông qua quỹ phát triển công nghiệp phụ trợ, ưu đãi thuế cho R&D, và hợp tác công–tư để đầu tư nhà máy chế biến để tăng giá trị sản phẩm xuất khẩu. Mục tiêu là không phải loại bỏ FDI mà biến FDI thành động lực cho phát triển năng lực quốc gia thay vì chỉ là con số xuất khẩu.
Chuyển hóa 5 — Thay đổi quản trị công và văn hóa chính sách: từ báo cáo chỉ tiêu sang trách nhiệm công khai, tham vấn và đánh giá tác động xã hội.
Cuối cùng nhưng quan trọng nhất là đổi tư duy quản trị. Cần một hệ thống trách nhiệm công khai: mọi dự án, mọi ưu đãi, mọi hợp đồng lớn phải có đánh giá tác động trước và sau (ex-ante và ex-post) công khai, kèm theo tham vấn cộng đồng. Thanh tra và đánh giá độc lập cần được thiết lập để giám sát “chỉ tiêu hoàn thành” có thực sự đem lại lợi ích cho người dân hay chỉ là kết quả hành chính. Đồng thời, áp dụng cơ chế khuyến khích cho cán bộ chịu trách nhiệm cải thiện phúc lợi thực — ví dụ một phần đánh giá lãnh đạo địa phương dựa trên mức tăng thu nhập khả dụng, tỷ lệ việc làm bền vững và mức độ hài lòng người dân. Văn hóa chính sách cần chuyển từ “sợ sai” sang “sẵn sàng thử nghiệm, đánh giá và sửa sai” theo nguyên tắc thí điểm có kiểm soát.
Mỗi chuyển hóa trên cần lộ trình thực thi và giai đoạn chuyển tiếp: trong ngắn hạn (1–2 năm) thay thước đo và áp dụng vài chính sách tín dụng thử nghiệm; trung hạn (3–5 năm) tái cấu trúc giáo dục, thúc đẩy chuỗi giá trị nội địa ở một số ngành mũi nhọn; dài hạn (5–15 năm) thay đổi toàn diện văn hóa quản trị và nâng cao năng lực nội sinh quốc gia. Những biện pháp này không làm GDP “sụt” mà làm cho GDP đi kèm với thu nhập thực và sức chống chịu xã hội — nghĩa là tăng trưởng “có xương sống”.
Kết luận, thoát khỏi “bề nổi” không chỉ là câu chuyện kỹ thuật chính sách mà là thay đổi triết lý phát triển: lấy đời sống con người, năng lực sản xuất nội sinh và phẩm giá công dân làm trung tâm. Khi chính sách được đo bằng mức sống, việc làm và năng lực — chứ không chỉ bằng con số tài khoản — thì bộ máy mới bắt đầu phục vụ cuộc sống thay vì phục vụ chỉ tiêu. Hiện nay, các chính sách và văn kiện của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế – xã hội, đổi mới sáng tạo, giáo dục nghề, chính sách công nghiệp, FDI, cải cách hành chính và tín dụng đều đã đề cập đến các nội dung quan trọng: tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực sáng tạo, cải thiện năng lực quản trị công và thúc đẩy phát triển con người. Nghị quyết 19, 20, 21 và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2021–2030 đã nhấn mạnh cải cách thể chế, tăng năng suất và phát triển bền vững. Nghị quyết 57 về đổi mới sáng tạo đã đề cập tới phát triển năng lực nội sinh, khoa học – công nghệ và vai trò trung tâm của con người. Chiến lược giáo dục nghề và các chính sách công nghiệp – FDI cũng đã nêu ưu tiên cho phát triển kỹ năng, nội địa hóa và chuyển giao công nghệ. Các chỉ số cải cách hành chính như PCI, PAPI hay các chương trình E-Government nhằm tăng minh bạch, trách nhiệm và đo lường hiệu quả quản lý.
Tuy nhiên, những chính sách này vẫn tồn tại nhiều hạn chế và khoảng trống thực tiễn. Trước hết, tăng trưởng kinh tế vẫn thiên về các chỉ tiêu tài chính, GDP, xuất khẩu, đầu tư công và vốn FDI, nhưng chưa thực sự đo lường được phúc lợi của người dân, việc làm bền vững và năng lực quốc gia. Sáng tạo và khoa học công nghệ được khuyến khích nhưng phần lớn gắn với các đề tài, dự án giấy tờ, thiếu liên kết với doanh nghiệp và chuỗi giá trị nội địa. Chính sách công nghiệp và FDI còn thiên về số vốn và dự án, thiếu cơ chế ràng buộc chuyển giao công nghệ, nội địa hóa và tạo việc làm thực chất. Giáo dục nghề và đại học tập trung vào bằng cấp, điểm số, chưa gắn kết nhu cầu thị trường lao động và đặc thù vùng kinh tế. Cải cách hành chính chủ yếu đo bằng chỉ tiêu, thủ tục, báo cáo, mà chưa thực sự đo lường tác động xã hội, phúc lợi và niềm tin của người dân. Tín dụng và đầu tư công vẫn tập trung vào bất động sản, dự án lớn, dẫn đến doanh nghiệp nhỏ, hợp tác xã, chuỗi giá trị nội địa khó tiếp cận vốn và cơ hội phát triển.
Trên cơ sở nhận diện các khoảng trống này, sự cần thiết chuyển đổi tư duy và chính sách là rõ ràng. Việt Nam cần thay đổi từ tăng trưởng “bề nổi”, đo bằng chỉ tiêu hành chính, sang phát triển có chiều sâu, lấy phúc lợi con người và năng lực nội sinh làm trung tâm. Điều này đòi hỏi năm trụ cột chuyển hóa chính sách đồng bộ.
Thứ nhất, thay thước đo phát triển: ngoài GDP và các chỉ tiêu tài chính, cần xây dựng bộ chỉ số toàn diện về thu nhập khả dụng, việc làm bền vững, mức độ nội địa hóa sản xuất, mức độ hài lòng của người dân với dịch vụ công và chỉ số bất bình đẳng xã hội. Các chỉ số này phải trở thành cơ sở phân bổ ngân sách, đánh giá nhiệm kỳ và lựa chọn ưu tiên chính sách, tạo động lực cho bộ máy nhà nước phục vụ con người thay vì chỉ phục vụ chỉ tiêu.
Thứ hai, tái cấu trúc tín dụng và đầu tư công: dòng vốn cần ưu tiên cho doanh nghiệp nhỏ, hợp tác xã, chuỗi giá trị nội địa, các dự án tạo việc làm bền vững. Cơ chế tín dụng và ưu đãi tài chính cần gắn với kết quả tạo việc làm và gia tăng giá trị trong nước, đồng thời kiểm soát dòng tiền chảy vào thị trường tài sản để tránh tăng trưởng “ảo” mà không cải thiện đời sống.
Thứ ba, tái định vị giáo dục và đào tạo nghề: hệ thống giáo dục cần gắn với nhu cầu thị trường, đào tạo kỹ năng thực hành, thúc đẩy liên kết giữa trường nghề – doanh nghiệp – chính quyền địa phương và hỗ trợ chuyển đổi nghề cho lao động yếu thế, lao động nông thôn, lao động từ các ngành suy giảm. Đây là nền tảng để tăng năng suất và thu nhập thực tế, đồng thời giảm thất nghiệp ẩn.
Thứ tư, xây dựng chuỗi giá trị nội địa và chính sách công nghiệp có chủ đích: FDI được tuyển chọn theo khả năng chuyển giao công nghệ, nâng cao nội địa hóa và phát triển nguồn nhân lực địa phương. Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp phụ trợ nội địa thông qua quỹ phát triển công nghiệp, ưu đãi thuế cho R&D, hợp tác công–tư để nâng giá trị sản phẩm xuất khẩu. Mục tiêu là biến FDI thành động lực nâng cao năng lực quốc gia thay vì chỉ tạo xuất khẩu.
Thứ năm, thay đổi quản trị công và văn hóa chính sách: mọi dự án, ưu đãi và chính sách lớn cần đánh giá tác động trước và sau, công khai và tham vấn cộng đồng. Cán bộ lãnh đạo được đánh giá dựa trên kết quả thực về phúc lợi, việc làm và niềm tin xã hội, thay vì chỉ tiêu hành chính. Văn hóa chính sách cần chuyển từ sợ sai sang sẵn sàng thử nghiệm, đánh giá và sửa sai theo nguyên tắc thí điểm có kiểm soát.
Trên cơ sở năm trụ cột này, cần một lộ trình chuyển đổi. Trong ngắn hạn (1–2 năm), xây dựng thước đo mới và triển khai thử nghiệm một số chính sách tín dụng. Trung hạn (3–5 năm), tái cấu trúc giáo dục, thúc đẩy chuỗi giá trị nội địa ở các ngành mũi nhọn. Dài hạn (5–15 năm), thay đổi toàn diện văn hóa quản trị, nâng cao năng lực nội sinh quốc gia và tạo phúc lợi thực chất cho người dân.
Để hiện thực hóa chiến lược này, cần kiến nghị Đảng và Nhà nước:
Xây dựng nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế có chiều sâu, lấy con người, năng lực nội sinh và phúc lợi xã hội làm trung tâm.
Giao cơ quan đầu mối chủ trì xây dựng khung tổng thể, phối hợp các bộ ngành, ngân hàng nhà nước và địa phương triển khai chương trình hành động cụ thể.
Thiết lập cơ chế giám sát độc lập, công khai, đồng thời tổ chức diễn đàn tham vấn xã hội rộng rãi để tạo đồng thuận về chuyển đổi phát triển.
Kết hợp ngân sách, tín dụng, ưu đãi công nghiệp, chính sách giáo dục – đào tạo và quản trị công trong một lộ trình liên thông, đo lường được kết quả và tác động xã hội.
Chỉ khi tất cả các chính sách được đồng bộ, gắn với kết quả thực về phúc lợi, việc làm và năng lực quốc gia, thì tăng trưởng mới không chỉ là con số GDP, mà trở thành sức mạnh bền vững của một dân tộc biết sống, biết sáng tạo và hướng tới tương lai.
#
Người gửi: TRƯƠNG NAM THUẬN Thời gian gửi: 22/10/2025
I. KHÁI NIỆM VÀ MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢCQuy hoạch phát triển cộng đồng và an sinh xã hội là cấu phần chiến lược của hệ thống quy hoạch quốc gia, nhằm đảm bảo sự phát triển toàn diện, công bằng, hài hòa giữa con người – không gian – cơ hội sống.
Đây không chỉ là quy hoạch phân bổ nguồn lực xã hội, mà còn là quy hoạch cấu trúc cộng đồng dân cư, sinh kế và hạ tầng an sinh, hướng tới 3 mục tiêu chiến lược lớn:Bảo đảm an sinh cơ bản và nâng cao chất lượng sống của người dân trong mọi vùng, mọi giai đoạn phát triển.Phát triển cộng đồng bền vững, hình thành năng lực tự quản, tự tổ chức và cùng tham gia vào tiến trình phát triển.Tạo nền tảng xã hội ổn định cho quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và chuyển đổi xanh – số – sáng tạo.An sinh xã hội và phát triển cộng đồng vì vậy không chỉ là một lĩnh vực phụ trợ, mà là mục tiêu chiến lược ưu tiên hàng đầu – là “linh hồn nhân văn” của toàn bộ hệ thống quy hoạch.II. CẤU PHẦN CỦA QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG VÀ AN SINH XÃ HỘI1. Cấu phần 1: Hạ tầng xã hội cơ bảnQuy hoạch không gian và quỹ đất cho nhà ở xã hội, y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao, trạm y tế, nhà dưỡng lão, trung tâm phục hồi, không gian cộng đồng, trung tâm dịch vụ việc làm.Gắn với các chỉ tiêu định lượng: diện tích sàn nhà ở xã hội/người; bán kính tiếp cận y tế, giáo dục; tỷ lệ đất công cộng; không gian sinh hoạt cộng đồng/1000 dân.Là cơ sở để phân bổ chỉ tiêu đất đai, đầu tư và tài chính công trong quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị.2. Cấu phần 2: Cấu trúc cộng đồng và văn hóa xã hộiXác định mô hình tổ chức cộng đồng, mạng lưới gắn kết cư dân – việc làm – dịch vụ – sinh hoạt.Quy hoạch văn hóa, bản sắc, di sản, sinh kế gắn với cộng đồng địa phương.Xây dựng cơ chế “đồng kiến tạo” giữa chính quyền – doanh nghiệp – người dân trong phát triển hạ tầng xã hội.3. Cấu phần 3: An sinh việc làm và sinh kếQuy hoạch mạng lưới việc làm tại chỗ, đào tạo nghề, không gian sản xuất nhỏ – trung bình, và thị trường lao động địa phương.Bố trí quỹ đất, không gian hỗ trợ sản xuất cộng đồng, hợp tác xã, trung tâm khởi nghiệp, cụm nghề.Liên kết chặt chẽ với quy hoạch kinh tế vùng để đảm bảo không có khu dân cư nào tách rời khỏi mạng lưới sinh kế.4. Cấu phần 4: Mạng lưới bảo trợ và phúc lợi xã hộiQuy hoạch hệ thống trợ giúp xã hội, phúc lợi, quỹ an sinh, cơ sở xã hội hóa dịch vụ công (y tế, giáo dục, nhà ở, văn hóa).Thiết lập cơ chế dữ liệu và quản lý tích hợp giữa các ngành.Liên thông với hệ thống thông tin quốc gia về dân cư, việc làm và đời sống.5. Cấu phần 5: Cộng đồng an toàn, thích ứng và sáng tạoQuy hoạch năng lực phòng chống thiên tai, ứng phó khẩn cấp, an ninh con người.Phát triển “hệ thống hạ tầng mềm” – gồm các mạng lưới tự quản, tình nguyện, cộng đồng đổi mới sáng tạo, công nghệ số.Lồng ghép mục tiêu chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và sáng tạo xã hội vào từng cấp quy hoạch.MỨC ĐỘ THỂ HIỆN CỦA NỘI DUNG “PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG VÀ AN SINH XÃ HỘI” TRONG TỪNG CẤP QUY HOẠCHViệc tích hợp nội dung phát triển cộng đồng và an sinh xã hội vào hệ thống quy hoạch quốc gia cần được thể hiện một cách xuyên suốt, có tầng bậc rõ ràng từ cấp chiến lược quốc gia đến cấp thực thi tại địa phương, đảm bảo nguyên tắc thống nhất – liên kết – đặc thù – khả thi.1. Ở cấp Quy hoạch tổng thể quốc giaĐây là tầng chiến lược cao nhất, thể hiện tầm nhìn, mục tiêu và cấu trúc phát triển của đất nước trong dài hạn.
Ở cấp này, nội dung phát triển cộng đồng và an sinh xã hội cần được xác định như một mục tiêu ưu tiên quốc gia, ngang hàng với phát triển kinh tế, hạ tầng và môi trường. Quy hoạch tổng thể quốc gia phải làm rõ định hướng bảo đảm công bằng phát triển giữa các vùng, nhóm dân cư; cơ cấu phân bố dân số, dịch vụ công và phúc lợi xã hội; hệ thống chỉ tiêu đất đai và nguồn lực dành cho hạ tầng xã hội.
Đây cũng là nơi xác định các hành lang an sinh quốc gia – gồm mạng lưới y tế, giáo dục, văn hóa, nhà ở xã hội, hạ tầng chăm sóc, kết nối giữa các vùng. Nội dung này trở thành mệnh lệnh tích hợp liên ngành, chi phối toàn bộ hệ thống quy hoạch phía dưới.2. Ở cấp Quy hoạch vùngCấp quy hoạch vùng là nơi cụ thể hóa định hướng quốc gia theo điều kiện đặc thù từng vùng kinh tế – xã hội.
Nội dung phát triển cộng đồng và an sinh xã hội cần được thể hiện ở ba phương diện: (i) phân bố không gian dân cư và dịch vụ xã hội chủ yếu; (ii) tổ chức mạng lưới trung tâm an sinh vùng, gồm các cơ sở đào tạo, y tế, văn hóa, và nhà ở công nhân; (iii) kết nối hạ tầng xã hội liên vùng nhằm đảm bảo người dân di chuyển và tiếp cận phúc lợi công bằng.
Tại cấp này, cần xác định rõ vùng động lực về phúc lợi và an sinh xã hội, ví dụ như vùng TP.HCM mở rộng hay vùng Hà Nội mở rộng, nơi mô hình quy hoạch cộng đồng có thể thí điểm, lan tỏa ra toàn quốc.
Đồng thời, quy hoạch vùng phải đóng vai trò điều phối chính sách giữa các tỉnh, tránh tình trạng chênh lệch xã hội lớn và mất cân bằng lao động – dân cư.3. Ở cấp Quy hoạch tỉnhĐây là cấp quy hoạch trung gian, kết nối giữa chiến lược vùng và thực tiễn địa phương.
Tại cấp tỉnh, nội dung phát triển cộng đồng và an sinh xã hội phải được thể hiện bằng các chỉ tiêu định lượng và bố trí cụ thể: tỷ lệ đất dành cho công trình công cộng, mật độ trường học, trạm y tế, trung tâm văn hóa – thể thao, quỹ đất nhà ở xã hội, và chỉ số tiếp cận phúc lợi (ví dụ: khoảng cách tối đa từ khu dân cư đến điểm dịch vụ xã hội cơ bản).
Cấp quy hoạch này cần xác định khu vực ưu tiên đầu tư xã hội, thường là khu công nghiệp, khu tái định cư, vùng chuyển đổi sinh kế, vùng nông thôn mới; đồng thời, phải đề xuất cơ chế xã hội hóa, PPP, hoặc quỹ phúc lợi địa phương để huy động nguồn lực.
Nội dung phát triển cộng đồng và an sinh xã hội trong quy hoạch tỉnh vì vậy đóng vai trò chuyển hóa mục tiêu quốc gia thành hành động cụ thể, gắn với điều kiện dân sinh và năng lực ngân sách của từng địa phương.4. Ở cấp Quy hoạch đô thị và quy hoạch nông thônĐây là cấp quy hoạch mang tính không gian – hình thái, nơi nội dung phát triển cộng đồng được thể hiện cụ thể nhất.
Quy hoạch đô thị phải bố trí rõ ràng hệ thống không gian công cộng, khu dân cư, nhà ở xã hội, trung tâm cộng đồng, trạm y tế, trường học, sân chơi, công viên, không gian sinh hoạt và dịch vụ dân sinh trong bán kính hợp lý.
Trong quy hoạch nông thôn, nội dung này thể hiện ở việc thiết lập các trục sinh kế và sinh hoạt cộng đồng, hệ thống chợ, trung tâm xã, thiết chế văn hóa, không gian sinh thái cộng đồng và dịch vụ nông thôn.
Ở cả hai loại hình, quy hoạch cần bảo đảm khả năng tiếp cận bình đẳng cho mọi tầng lớp dân cư, chú trọng nhóm yếu thế, lao động di cư, phụ nữ, người già và trẻ em.
Đây cũng là tầng quy hoạch gắn trực tiếp với cảm nhận của người dân về “chất lượng sống” – tức là thước đo cuối cùng của mọi chính sách phát triển.5. Ở cấp Quy hoạch chi tiết và dự án đầu tư xây dựngNội dung phát triển cộng đồng và an sinh xã hội cần được thể hiện như một yêu cầu thiết kế bắt buộc.
Các chỉ tiêu như tỷ lệ đất công cộng, khoảng cách đi bộ đến tiện ích, không gian sinh hoạt chung, khu cây xanh, lối tiếp cận cho người khuyết tật, hay diện tích nhà ở xã hội tối thiểu phải được quy định rõ trong đồ án và hồ sơ pháp lý.
Đồng thời, phải có quy trình đánh giá tác động xã hội song song với đánh giá tác động môi trường trong thẩm định quy hoạch và dự án đầu tư.
Cấp quy hoạch này là nơi kết tinh các giá trị nhân văn của toàn bộ hệ thống – nơi “an sinh” trở thành hình hài cụ thể trong từng khu phố, khu dân cư, từng mét vuông không gian sống.Việc đưa “quy hoạch phát triển cộng đồng và an sinh xã hội” vào hệ thống quy hoạch quốc gia sẽ tác động lan tỏa và buộc điều chỉnh ở nhiều luật và nghị định:Luật Quy hoạch: bổ sung nội dung xã hội – an sinh thành một cấu phần bắt buộc.Luật Đất đai: yêu cầu bố trí quỹ đất cho phát triển cộng đồng, hạ tầng xã hội.Luật Xây dựng, Luật Kiến trúc: quy định tiêu chuẩn thiết kế công trình công cộng, trung tâm cộng đồng, không gian sinh hoạt chung.Luật Đầu tư và Luật PPP: mở rộng danh mục ưu đãi đầu tư xã hội – phúc lợi.Luật KH&CN và Đổi mới sáng tạo: cho phép ứng dụng công nghệ dữ liệu, mô hình cộng đồng thông minh.Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh BĐS: định hướng lại thị trường nhà ở theo nhu cầu ở thực và gắn kết xã hội.Luật Bảo vệ môi trường: mở rộng đánh giá tác động xã hội như một tiêu chí bắt buộc trong quy hoạch.“Phát triển cộng đồng và an sinh xã hội” không còn là nội dung phụ trong quy hoạch, mà là mục tiêu tối thượng, là thước đo giá trị của mọi phát triển.
Nó chính là bản chất của Nhà nước phục vụ và xã hội nhân văn – nơi quy hoạch không chỉ sắp đặt không gian, mà còn kiến tạo cuộc sống, tạo cơ hội và bảo đảm nhân phẩm cho mọi người dân.Vì vậy, khi được thể chế hóa, đây sẽ là bước ngoặt chuyển đổi tư duy quy hoạch Việt Nam – từ “phân bổ nguồn lực vật chất” sang “kiến tạo hệ sinh thái xã hội toàn diện”.
ĐỀ NGHỊ BỔ SUNG CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ THÀNH PHẦN “QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG VÀ AN SINH XÃ HỘI” TRONG HỆ THỐNG QUY HOẠCH QUỐC GIAI. Cơ sở pháp lýLuật Quy hoạch số 21/2017/QH14 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2019):Điều 3, Khoản 2 và Khoản 3 quy định nguyên tắc tích hợp đa ngành trong hệ thống quy hoạch quốc gia, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa phát triển kinh tế, xã hội, môi trường và quốc phòng, an ninh.Điều 17, Khoản 1, điểm c xác định nội dung của Quy hoạch tổng thể quốc gia phải thể hiện định hướng phân bố dân cư, hệ thống đô thị – nông thôn, kết cấu hạ tầng xã hội chủ yếu.
→ Đây là căn cứ pháp lý để lồng ghép Quy hoạch phát triển cộng đồng và an sinh xã hội như một hợp phần độc lập hoặc tiểu hợp phần trong quy hoạch tổng thể, với chức năng điều phối phát triển con người, xã hội và phúc lợi công dân.Luật Nhà ở (sửa đổi 2023), Luật Đất đai (2024) và Luật Kinh doanh bất động sản (2023) đều có các quy định liên quan đến phát triển nhà ở xã hội, hạ tầng xã hội, phúc lợi công cộng, cơ sở chăm sóc và dịch vụ xã hội, cho phép xây dựng quy hoạch riêng hoặc tiểu quy hoạch gắn với nhu cầu dân cư, nhóm yếu thế, người lao động.Luật Bảo hiểm xã hội (2014, sửa đổi 2024) và Luật Việc làm (2013) xác định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm an sinh, phúc lợi, tạo việc làm bền vững, phát triển thị trường lao động – là nền tảng cấu thành nội dung quy hoạch an sinh xã hội gắn với không gian phát triển.Luật Xây dựng (sửa đổi 2020) và Nghị định số 37/2019/NĐ-CP về lập, thẩm định, phê duyệt và điều chỉnh quy hoạch đô thị – quy định trong nội dung quy hoạch đô thị phải có hạ tầng xã hội, thiết chế văn hóa, y tế, giáo dục, công viên, nhà ở xã hội – là cơ sở để triển khai các nội dung cụ thể hóa an sinh và cộng đồng ở cấp đô thị.Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2021–2030 (Quyết định 1362/QĐ-TTg ngày 11/8/2022) và Nghị quyết số 24-NQ/TW (2022) về phát triển vùng, đều nhấn mạnh yêu cầu phát triển con người là trung tâm và bảo đảm an sinh xã hội trong quy hoạch vùng, quy hoạch đô thị và nông thôn.II. Đề xuất cấu phần “Quy hoạch phát triển cộng đồng và an sinh xã hội” trong hệ thống quy hoạch quốc giaTrong Quy hoạch tổng thể quốc giaBổ sung một tiểu mục riêng trong nhóm “Định hướng phát triển xã hội” với tên gọi:
“Quy hoạch phát triển cộng đồng và an sinh xã hội”, bao gồm:Phân bố mạng lưới dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, văn hóa, chăm sóc người cao tuổi, người yếu thế);Định hướng không gian phúc lợi (nhà ở xã hội, công trình công cộng, không gian sinh hoạt cộng đồng);Định hướng phát triển nghề nghiệp, sinh kế, việc làm trong mối quan hệ với đô thị, vùng và khu công nghiệp;Hệ thống chỉ tiêu đo lường “an sinh – cộng đồng” làm cơ sở điều phối các quy hoạch cấp dưới.Trong Quy hoạch vùngCụ thể hóa mục tiêu phát triển cộng đồng theo đặc thù văn hóa – xã hội vùng, xây dựng mạng lưới an sinh vùng, như: các trung tâm điều phối lao động, trung tâm phục hồi xã hội, khu dịch vụ chăm sóc người cao tuổi – trẻ em, các cụm tiện ích xã hội vùng.Trong Quy hoạch tỉnhXác định vùng ưu tiên đầu tư an sinh, vùng cần tái thiết cộng đồng (vùng di dân, khu tái định cư, khu công nghiệp, khu nhà ở xã hội).Đưa tiêu chí hạ tầng xã hội – cộng đồng vào nhóm hạ tầng bắt buộc của quy hoạch phát triển đô thị và nông thôn mới.Trong Quy hoạch đô thị (quy hoạch chung, phân khu, chi tiết)Cụ thể hóa bản đồ phân bố hạ tầng an sinh – cộng đồng: trường học, y tế, trung tâm việc làm, khu nhà ở xã hội, không gian văn hóa cộng đồng, v.v.Quy định rõ tỷ lệ đất, mật độ và chỉ tiêu phục vụ xã hội, gắn với quy mô dân số và nhu cầu thực tế từng khu vực.Kiến nghị tổ chức triển khaiĐề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn nội dung tích hợp Quy hoạch phát triển cộng đồng và an sinh xã hội trong các cấp quy hoạch.Đề nghị Chính phủ chỉ đạo nghiên cứu, bổ sung nội dung này vào Nghị định sửa đổi hướng dẫn thi hành Luật Quy hoạch, nhằm tạo khung pháp lý thống nhất từ trung ương đến địa phương.Đề nghị các tỉnh, thành phố, vùng kinh tế trọng điểm thí điểm xây dựng bản đồ quy hoạch an sinh – cộng đồng lồng ghép trong quy hoạch đô thị và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026–2035.I. CƠ SỞ PHÁP LÝ CHUNGLuật Quy hoạch (2017)Xác định hệ thống quy hoạch gồm: quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị, nông thôn, và quy hoạch ngành.Mục tiêu là “phân bổ, sử dụng hiệu quả nguồn lực quốc gia, gắn kết phát triển kinh tế – xã hội với quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, an sinh xã hội và thích ứng biến đổi khí hậu”.
→ Do đó, việc thiết lập một quy hoạch phát triển cộng đồng và an sinh xã hội có thể được coi là nội dung bắt buộc phải cụ thể hóa trong quy hoạch tổng thể quốc gia và các cấp dưới.Luật Đất đai (2024, có hiệu lực 2025)Là nền tảng xác lập quyền tiếp cận, phân bổ và sử dụng đất đai cho các mục đích xã hội, đặc biệt là đất dành cho nhà ở xã hội, thiết chế văn hóa, y tế, giáo dục, cộng đồng.Cho phép xác định quỹ đất cho phát triển cộng đồng và tiện ích xã hội trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
→ Cần lồng ghép quy hoạch phát triển cộng đồng vào chỉ tiêu phân bổ đất đai của từng cấp quy hoạch.Luật Kiến trúc (2019)Quy định kiến trúc phải đảm bảo hài hòa giữa yếu tố văn hóa – xã hội – môi trường – kinh tế, hướng đến phát triển bền vững và bản sắc.
→ Đây là cơ sở để cụ thể hóa không gian an sinh và cộng đồng trong các đồ án quy hoạch, thể hiện qua mô hình khu dân cư, trung tâm cộng đồng, thiết chế xã hội.Luật Xây dựng (2014, sửa đổi 2020)Điều chỉnh toàn bộ quá trình đầu tư xây dựng, trong đó có công trình công cộng, hạ tầng xã hội, tiện ích dân sinh.
→ Khi quy hoạch phát triển cộng đồng được xác lập, Luật Xây dựng là công cụ thực thi các dự án hạ tầng an sinh cụ thể.Luật Đầu tư (2020)Mở ra cơ chế xã hội hóa đầu tư các lĩnh vực hạ tầng xã hội, giáo dục, y tế, nhà ở xã hội, văn hóa, thể thao.
→ Cần liên kết nội dung quy hoạch phát triển cộng đồng với danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư và mô hình PPP, xã hội hóa.Luật Khoa học và Công nghệ (2013) và Luật Đổi mới sáng tạo (đang được xây dựng)Cho phép ứng dụng công nghệ, dữ liệu và đổi mới sáng tạo trong quy hoạch, quản lý xã hội, quản trị cộng đồng.
→ Tạo cơ sở cho việc xây dựng nền tảng số về quy hoạch an sinh – cộng đồng, phục vụ điều phối chính sách liên ngành.Luật Nhà ở (2023) và Luật Kinh doanh bất động sản (2023)Là khung pháp lý quan trọng cho phát triển nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, tái định cư, nhà lưu trú và các mô hình cộng đồng cư dân mới.
→ Đây là tầng kết nối trực tiếp giữa quy hoạch cộng đồng và đời sống dân cư.Luật Bảo vệ môi trường (2020)Yêu cầu đánh giá tác động môi trường và xã hội trong quy hoạch và dự án phát triển.
→ Cần bổ sung nội dung “đánh giá tác động xã hội” vào quy trình thẩm định quy hoạch.II. NGHỊ QUYẾT CỦA BỘ CHÍNH TRỊ LIÊN QUANNghị quyết 57-NQ/TW (2023) về đổi mới cơ chế, chính sách phát triển TP.HCMKhuyến khích thí điểm mô hình mới về phát triển xã hội, đổi mới sáng tạo và quản trị đô thị.
→ Là cơ sở chính trị cho việc hình thành mô hình “quy hoạch phát triển cộng đồng” như một công cụ thể chế hóa đổi mới sáng tạo xã hội.Nghị quyết 68-NQ/TW (2023) về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy hoạchYêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp, tích hợp liên ngành, chú trọng yếu tố xã hội, môi trường, văn hóa.
→ Trực tiếp hỗ trợ đề xuất bổ sung nội dung an sinh và phát triển cộng đồng trong các cấp quy hoạch.Nghị quyết 26-NQ/TW (2022) về phát triển kinh tế – xã hội vùng Đông Nam BộNêu rõ mục tiêu phát triển vùng gắn với chất lượng sống, hạ tầng xã hội, và công bằng phát triển.
→ Là cơ sở vùng cho TP.HCM mở rộng trong việc triển khai thí điểm quy hoạch cộng đồng.Nghị quyết 33-NQ/TW (2023) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
→ Củng cố luận điểm rằng quy hoạch không chỉ là không gian kinh tế mà còn là không gian xã hội và văn hóa sống.Nghị quyết 24-NQ/TW (2022) về phát triển vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ (tham khảo cách tích hợp an sinh – xã hội trong quy hoạch vùng).HƯỚNG KIẾN NGHỊ VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆNĐề xuất bổ sung “Quy hoạch phát triển cộng đồng và an sinh xã hội” vào hệ thống quy hoạch quốc gia như một cấu phần ngang với quy hoạch phát triển kinh tế, không gian và hạ tầng.Giao Bộ KH&ĐT chủ trì cùng Bộ LĐTBXH, Bộ Xây dựng, Bộ TNMT, Bộ KH&CN xây dựng Thông tư hướng dẫn nội dung, tiêu chí, chỉ tiêu an sinh – cộng đồng trong quy hoạch.Thí điểm mô hình này tại vùng TP.HCM mở rộng hoặc các khu vực có mật độ dân cư cao, để rút kinh nghiệm trước khi nhân rộng toàn quốc.
CÁC LUẬT CÓ ẢNH HƯỞNG GIÁN TIẾP ĐẾN QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG VÀ AN SINH XÃ HỘINgoài các luật trực tiếp như Luật Quy hoạch, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Kiến trúc, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Đổi mới sáng tạo…, còn có nhiều đạo luật khác có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính khả thi và tính bền vững của quy hoạch phát triển cộng đồng và an sinh xã hội. Các luật này có thể chia thành 4 nhóm chính như sau:1. NHÓM LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚCGồm: Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Thanh tra, Luật Kiểm toán Nhà nước.Tác động cụ thể:Giai đoạn hình thành quy hoạch:
Các luật này quy định rõ thẩm quyền lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch của từng cấp chính quyền. Điều đó giúp xác định rõ “ai có quyền đưa cấu phần an sinh – cộng đồng vào quy hoạch” và “ai chịu trách nhiệm giải trình khi nội dung đó bị bỏ qua hoặc thực hiện sai”.
→ Nhờ vậy, quy hoạch phát triển cộng đồng và an sinh xã hội được thể chế hóa thành nhiệm vụ bắt buộc của cơ quan lập quy hoạch, không chỉ là nội dung tự chọn.Giai đoạn thẩm định – phê duyệt:
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật yêu cầu mọi nội dung quy hoạch có tác động đến xã hội phải được tham vấn công khai, lấy ý kiến rộng rãi, trong đó có cộng đồng dân cư. Điều này giúp cấu phần “phát triển cộng đồng” không còn là khẩu hiệu, mà trở thành quy trình pháp lý có tính bắt buộc.Giai đoạn thực hiện và giám sát:
Luật Giám sát và Luật Thanh tra tạo ra kênh kiểm soát độc lập về mức độ thực hiện quy hoạch an sinh, giúp người dân và đại biểu HĐND có cơ sở giám sát hiệu quả hơn.
→ Tác động này làm tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của quy hoạch.2. NHÓM LUẬT VỀ TÀI CHÍNH – NGÂN SÁCH VÀ ĐẦU TƯ CÔNGGồm: Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư công, Luật Quản lý tài sản công, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư.Tác động cụ thể:Giai đoạn hình thành quy hoạch:
Các luật này quy định về nguồn vốn và khả năng huy động tài chính. Khi đưa nội dung “an sinh xã hội và phát triển cộng đồng” vào quy hoạch, phải có cơ sở tài chính đi kèm.
→ Luật Ngân sách và Luật Đầu tư công giúp xác định nguồn lực nhà nước cho hạ tầng xã hội, trong khi Luật Đầu tư cho phép huy động nguồn lực tư nhân thông qua hợp tác công – tư (PPP), xã hội hóa dịch vụ cộng đồng.Giai đoạn thực thi:
Luật Đấu thầu và Luật Quản lý tài sản công đảm bảo minh bạch trong lựa chọn nhà đầu tư, nhà thầu cho các công trình phúc lợi, tránh tình trạng lợi ích nhóm.
→ Tác động này trực tiếp quyết định chất lượng, tốc độ và hiệu quả của các dự án cộng đồng (như nhà ở xã hội, trường học, y tế, hạ tầng sinh hoạt).Giai đoạn giám sát – đánh giá:
Hệ thống báo cáo ngân sách và đầu tư công cho phép đo lường hiệu quả sử dụng vốn cho an sinh xã hội, tạo dữ liệu minh bạch phục vụ đánh giá quy hoạch.
→ Như vậy, nhóm luật này tạo nền tảng tài chính – kỹ thuật để quy hoạch không bị “chết trên giấy”.3. NHÓM LUẬT VỀ XÃ HỘI, LAO ĐỘNG VÀ AN SINHGồm: Luật Lao động, Luật Việc làm, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Người cao tuổi, Luật Bình đẳng giới, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.Tác động cụ thể:Giai đoạn hình thành quy hoạch:
Các luật này giúp xác định chỉ tiêu xã hội và cơ cấu dân cư mục tiêu cho quy hoạch. Ví dụ: tỷ lệ người cao tuổi cần dịch vụ chăm sóc, tỷ lệ lao động cần hỗ trợ việc làm, tỷ lệ hộ nghèo cần nhà ở xã hội…
→ Nhờ đó, quy hoạch phát triển cộng đồng không chỉ là quy hoạch đất đai, mà gắn chặt với quy hoạch nhân lực và phúc lợi xã hội.Giai đoạn thực thi:
Luật Việc làm và Luật Doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo hành lang cho các chương trình tạo việc làm tại chỗ, phát triển kinh tế cộng đồng, giúp cư dân có thu nhập ổn định ngay trong khu vực quy hoạch.
→ Điều này khiến quy hoạch an sinh trở thành quy hoạch sinh kế bền vững, chứ không chỉ là phân bố công trình công cộng.Giai đoạn giám sát – đánh giá:
Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bình đẳng giới và Luật Trẻ em quy định trách nhiệm báo cáo, đánh giá định kỳ, tạo cơ sở để đo lường kết quả thực thi quy hoạch dựa trên tác động thực đến đời sống con người (việc làm, thu nhập, sức khỏe, giáo dục, bình đẳng).
→ Tác động này giúp quy hoạch được đánh giá bằng tiêu chí con người thay vì chỉ tiêu kỹ thuật.4. NHÓM LUẬT VỀ MÔI TRƯỜNG, VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNGGồm: Luật Bảo vệ môi trường, Luật Di sản văn hóa, Luật Văn hóa cơ sở, Luật Quy hoạch đô thị, Luật Thống kê, Luật Tiết kiệm năng lượng, Luật Biến đổi khí hậu (dự kiến ban hành).Tác động cụ thể:Giai đoạn hình thành quy hoạch:
Luật Bảo vệ môi trường yêu cầu đánh giá tác động xã hội – sinh thái ngay từ đầu, đảm bảo các dự án an sinh không làm tổn hại môi trường sống của cộng đồng.
Luật Di sản văn hóa và Luật Văn hóa cơ sở giúp xác định bản sắc và ký ức cộng đồng, bảo đảm quy hoạch mới vẫn kế thừa và nuôi dưỡng đời sống tinh thần của dân cư.
→ Nhờ đó, quy hoạch trở nên có hồn, có văn hóa và bền vững về xã hội.Giai đoạn thực thi:
Các luật này quy định chuẩn mực về hạ tầng xanh, công trình tiết kiệm năng lượng, quản lý rác thải, bảo tồn cảnh quan văn hóa, giúp các dự án cộng đồng có chất lượng sống cao, thân thiện với môi trường.
→ Đây là cơ sở để xây dựng “đô thị hạnh phúc” thay vì chỉ “đô thị hiện đại”.Giai đoạn giám sát – đánh giá:
Luật Thống kê và các chỉ số phát triển bền vững giúp hình thành hệ thống dữ liệu định lượng cho việc đo lường mức độ đạt được của quy hoạch (như chỉ số hạnh phúc, chất lượng môi trường sống, sự hài lòng của người dân).
→ Nhóm luật này làm cho quy hoạch phát triển cộng đồng trở thành một tiến trình xã hội có thể đo lường, giám sát và cải tiến liên tục.TỔNG HỢP CƠ CHẾ TÁC ĐỘNGNhóm 1 (Tổ chức – quản trị): Xác lập thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế kiểm soát và giám sát.Nhóm 2 (Tài chính – đầu tư): Quy định nguồn lực, phương thức huy động và cơ chế sử dụng vốn.Nhóm 3 (Xã hội – an sinh): Xác định mục tiêu, chỉ tiêu, và cơ chế thực thi chính sách con người.Nhóm 4 (Môi trường – văn hóa): Bảo đảm bền vững xã hội, sinh thái và giá trị cộng đồng.Khi bốn nhóm luật này được tích hợp đồng bộ vào hệ thống quy hoạch, “phát triển cộng đồng và an sinh xã hội” không chỉ là một nội dung bổ sung, mà trở thành linh hồn của quy hoạch, phản ánh mục tiêu tối hậu của mọi chính sách phát triển – đó là cuộc sống tốt đẹp, công bằng và có phẩm giá cho con người.Như vậy, “Quy hoạch phát triển cộng đồng và an sinh xã hội” không thể đứng độc lập, mà phải được đặt trong mạng lưới pháp lý liên ngành. Sự tích hợp này không chỉ giúp quy hoạch được triển khai hiệu quả mà còn giúp các Bộ, ngành, địa phương có căn cứ pháp lý rõ ràng để tổ chức thực hiện, giám sát, đầu tư và đánh giá kết quả.
Cấu phần an sinh – cộng đồng trong quy hoạch vì thế không chỉ là một “nội dung chuyên đề”, mà trở thành mục tiêu chiến lược hàng đầu, gắn trực tiếp với các quyền hiến định về con người, đời sống, công bằng và phát triển bền vững.
#
Người gửi: TRƯƠNG NAM THUẬN Thời gian gửi: 20/10/2025
I. Cơ sở lý luận và học thuật về du lịch, hòa bình và phát triển bền vững
UNWTO (2017). Tourism and Peace – A Global Perspective. World Tourism Organization, Madrid.
United Nations (2015). Transforming Our World: The 2030 Agenda for Sustainable Development.
Institute for Economics and Peace (IEP). Global Peace Index – Annual Reports 2015–2024.
D’Amore, L. (1988). Tourism — The World’s Peace Industry. Journal of Travel Research, 27(1), 35–40.
Salazar, N. B. (2006). Tourism and Glocalization: ‘Local’ Tour Guiding. Annals of Tourism Research, 33(3), 628–646.
Haq, F. & Medhekar, A. (2019). Peace Through Tourism: Opportunities for Sustainable Development in Asia. Routledge.
Wearing, S. & Neil, J. (2009). Ecotourism: Impacts, Potentials and Possibilities. Butterworth-Heinemann.
Richards, G. (2018). Cultural Tourism: A Review of Recent Research and Trends. Journal of Hospitality and Tourism Management, 36, 12–21.
McIntosh, R. & Goeldner, C. (1990). Tourism: Principles, Practices, Philosophies. Wiley.
Nguyễn Văn Lưu (2020). Du lịch bền vững và phát triển cộng đồng ở Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật.
II. Cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế
UNESCO (2023). World Heritage and Sustainable Tourism Programme.
Japan National Tourism Organization (JNTO) (2019). Hiroshima Peace Tourism Strategy.
Korean Tourism Organization (2021). DMZ Peace Tourism Initiative.
Thailand Tourism Authority (2020). Community-Based Tourism for Peace and Reconciliation.
Indonesia Ministry of Tourism (2022). Bali Green and Peace Tourism Roadmap.
Bhutan Tourism Council (2023). Gross National Happiness and Peaceful Tourism Approach.
United Nations Environment Programme (2022). Tourism in Protected Areas: A Global Benchmarking Study.
Vietnam National Administration of Tourism (VNAT) (2023). Vietnam Tourism Highlights 2023.
UNESCO & UNWTO (2020). Tourism for Peace and Understanding: Building Bridges Through Travel.
ASEAN Secretariat (2018). ASEAN Declaration on Sustainable Tourism Development.
III. Cơ sở chính sách, pháp lý và thực tiễn Việt Nam
Bộ Chính trị (2023). Nghị quyết số 82/NQ-CP về đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Quốc hội (2023). Luật Du lịch Việt Nam (sửa đổi).
Chính phủ Việt Nam (2022). Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Bộ Ngoại giao (2023). Sách Trắng Ngoại giao Việt Nam – Chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và phát triển.
Ban Tuyên giáo Trung ương (2024). Đề án phát huy giá trị văn hóa và con người Việt Nam trong phát triển bền vững đất nước.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2024). Báo cáo tổng hợp các mô hình du lịch cộng đồng tại Việt Nam.
Tổng cục Du lịch Việt Nam (2022). Chiến lược Marketing Du lịch Việt Nam 2022–2030.
Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (2023). Nghiên cứu mô hình Du lịch Hòa bình và Du lịch Cộng đồng tại Việt Nam.
Nguyễn Văn Đính (2021). Du lịch và quyền lực mềm quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa. Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 12/2021.
Trần Hữu Sơn (2019). Bản sắc văn hóa Việt Nam và du lịch bền vững. Nxb Văn hóa Dân tộc.
IV. Nguồn tham khảo gợi ý bổ sung cho phần triển khai
Báo cáo của World Economic Forum (2024) về Travel & Tourism Competitiveness Index.
Báo cáo OECD (2023): Peace Tourism and Societal Well-being.
Tư liệu từ UNESCO Vietnam Office, Liên hiệp các Tổ chức Hòa bình Quốc tế (IPB), Peace Boat Japan.
Các nghiên cứu trong nước về du lịch xanh, du lịch cộng đồng, du lịch nhân văn từ Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội và TP.HCM.
Dữ liệu thực tế từ Tổng cục Thống kê Việt Nam (GSO) về lượng khách quốc tế 2019–2025, doanh thu du lịch và xu hướng thị trường. I. Cơ sở lý luận của khái niệm “Du lịch Hòa bình”
1. Nguồn gốc khái niệm
Khái niệm “Peace Tourism” – Du lịch Hòa bình được hình thành vào cuối thế kỷ XX, do nhà nghiên cứu Louis D’Amore (1988) đề xuất, với luận điểm:
“Du lịch là ngành công nghiệp vì hòa bình lớn nhất thế giới, vì nó khuyến khích con người vượt qua biên giới, hiểu biết lẫn nhau và giảm thiểu định kiến, xung đột.”
Theo đó, du lịch không chỉ là hoạt động kinh tế, mà còn là một công cụ ngoại giao nhân dân (people-to-people diplomacy), góp phần kiến tạo lòng tin, đối thoại và hợp tác quốc tế.
2. Cơ sở lý luận về hòa bình và phát triển bền vững
Khái niệm “Du lịch Hòa bình” gắn liền với lý luận về hòa bình tích cực (positive peace) của Johan Galtung (1990), theo đó:
Hòa bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh, mà là sự hiện diện của công bằng, hợp tác, và phát triển bền vững.
Du lịch, nếu được định hướng đúng, sẽ thúc đẩy giao lưu văn hóa, tôn trọng đa dạng, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, từ đó hình thành nền hòa bình tích cực trong lòng cộng đồng.
UNWTO (Tổ chức Du lịch Thế giới) và UNESCO cũng khẳng định trong các tuyên bố từ năm 2015–2023 rằng:
“Du lịch là phương tiện tăng cường hòa bình, tôn trọng nhân quyền, và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc.”
3. Cơ sở lý luận trong kinh tế và xã hội học du lịch
Về mặt kinh tế – xã hội, Du lịch Hòa bình dựa trên các học thuyết sau:
Lý thuyết giao lưu liên văn hóa (Intercultural Exchange Theory): mỗi chuyến đi là một quá trình đối thoại giữa các nền văn hóa, giúp xóa bỏ định kiến và củng cố hợp tác.
Lý thuyết vốn xã hội (Social Capital Theory): du lịch tạo ra mạng lưới tin cậy, hợp tác giữa các cộng đồng, doanh nghiệp và chính quyền, hình thành nền tảng xã hội bền vững cho hòa bình.
Lý thuyết phát triển bền vững (Sustainable Development Theory): du lịch chỉ có ý nghĩa khi đi đôi với bảo tồn tài nguyên, văn hóa và nâng cao chất lượng sống của cư dân địa phương.
Từ đó, Du lịch Hòa bình được hiểu là một mô hình phát triển du lịch hướng đến gìn giữ hòa bình, tôn trọng con người và tự nhiên, thúc đẩy đối thoại, giáo dục, văn hóa và hợp tác cộng đồng.
4. Cơ sở lý luận về “Quyền lực mềm” và vai trò quốc gia
Theo học giả Joseph Nye (2004), “soft power” – quyền lực mềm – là khả năng gây ảnh hưởng thông qua văn hóa, giá trị và chính sách hòa bình.
Du lịch Hòa bình chính là biểu hiện tập trung của quyền lực mềm, giúp một quốc gia:
Tạo hình ảnh tích cực, thân thiện, an toàn.
Thu hút dòng khách du lịch có trách nhiệm, ổn định và lâu dài.
Gia tăng uy tín, vị thế trong các quan hệ quốc tế.
Vì vậy, Du lịch Hòa bình không chỉ là một chiến lược du lịch, mà còn là chiến lược chính trị – văn hóa – đối ngoại mềm của quốc gia.
II. Cơ sở thực tiễn của khái niệm “Du lịch Hòa bình”
1. Kinh nghiệm quốc tế
Nhật Bản: mô hình Hiroshima Peace Tourism đưa các di tích chiến tranh thành điểm đến giáo dục và đối thoại về hòa bình; mỗi năm đón hơn 12 triệu lượt khách.
Hàn Quốc: phát triển DMZ Peace Tourism tại vùng phi quân sự, vừa bảo tồn thiên nhiên, vừa tạo không gian tưởng niệm và hợp tác.
Bhutan: lấy triết lý Gross National Happiness (Hạnh phúc Quốc gia Tổng thể) làm nền tảng phát triển du lịch, kết hợp tâm linh, văn hóa và môi trường.
Đức và Pháp: từ các vùng từng đối đầu trong chiến tranh, nay phát triển “Hành trình ký ức – Memory Routes” như biểu tượng hòa giải và hợp tác châu Âu.
→ Các ví dụ này cho thấy: du lịch hòa bình không phải là khái niệm lý thuyết, mà là mô hình đã được vận hành thành công, tạo giá trị kinh tế, văn hóa và chính trị rõ rệt.
2. Xu hướng toàn cầu
Theo UNWTO (2023):
Khoảng 68% du khách toàn cầu có xu hướng tìm kiếm trải nghiệm văn hóa – tinh thần – hòa bình, thay vì tiêu dùng vật chất.
Du lịch giáo dục, du lịch xanh, du lịch ký ức và du lịch cộng đồng là bốn trụ cột của mô hình du lịch hòa bình hiện đại.
Nhiều tổ chức quốc tế (UNESCO, UNDP, OECD) đang xem du lịch hòa bình là công cụ xây dựng niềm tin xã hội hậu xung đột và phát triển bền vững vùng nông thôn.
3. Cơ sở thực tiễn tại Việt Nam
Việt Nam là quốc gia:
Có lịch sử chiến tranh, hòa giải và tái thiết sâu sắc, với nhiều di tích, ký ức chiến tranh và biểu tượng hòa bình.1. Mục tiêu của đề án
Mục tiêu tổng thể của đề án là xây dựng nền tảng lý luận, thực tiễn và phương pháp phát triển “du lịch hòa bình” tại Việt Nam – một mô hình phát triển du lịch mới gắn với tinh thần hòa hợp dân tộc, hợp tác quốc tế, và phát triển bền vững.
Cụ thể:
Khẳng định vai trò của Việt Nam như một điểm đến của hòa bình, đối thoại và chia sẻ nhân văn, trong bối cảnh thế giới nhiều biến động.
Định nghĩa và hệ thống hóa khái niệm “du lịch hòa bình” dưới góc độ khoa học, chính trị, văn hóa và kinh tế, đặt nền móng cho việc lồng ghép nó vào chiến lược phát triển du lịch quốc gia.
Xây dựng khung tiêu chí và mô hình phát triển thí điểm, giúp các địa phương có thể tổ chức hoạt động du lịch gắn với hòa bình, ký ức, đối thoại, và kết nối quốc tế.
Tạo cơ sở khoa học và thực tiễn để đề xuất chính sách, chương trình hành động và dự án cụ thể trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn mới (2025–2035).
2. Đầu ra của đề án
Các sản phẩm chính của đề án bao gồm:
Báo cáo nghiên cứu chuyên sâu về cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, mô hình và tiêu chí của “du lịch hòa bình” tại Việt Nam.
Bộ khái niệm – tiêu chuẩn – hướng dẫn vận dụng cho các địa phương, cơ quan quản lý, doanh nghiệp du lịch và tổ chức xã hội trong triển khai loại hình du lịch hòa bình.
Đề xuất mô hình thí điểm tại một số địa phương tiêu biểu (ví dụ: Côn Đảo, Quảng Trị, Điện Biên, Bình Mỹ – TP.HCM…), thể hiện rõ mối liên kết giữa du lịch, ký ức lịch sử và giáo dục công dân.
Bộ tiêu chí đánh giá tác động hòa bình của du lịch, bao gồm các chỉ số xã hội (gắn kết cộng đồng, giáo dục thế hệ trẻ, lan tỏa văn hóa hòa bình), chỉ số kinh tế (hiệu quả sinh kế, đầu tư bền vững) và chỉ số môi trường (bảo tồn di sản, sinh thái).
Hồ sơ đề xuất tích hợp “du lịch hòa bình” vào hệ thống chiến lược, quy hoạch và chương trình xúc tiến du lịch quốc gia.
3. Sử dụng kết quả nghiên cứu
Kết quả của đề án sẽ được sử dụng để:
Bổ sung cơ sở lý luận và thực tiễn cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong việc xây dựng chính sách, tiêu chuẩn phát triển du lịch theo hướng nhân văn và bền vững.
Hỗ trợ các địa phương tích hợp nội dung “du lịch hòa bình” vào quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt ở các vùng có di sản chiến tranh, khu tưởng niệm, hoặc tiềm năng giao lưu quốc tế.
Làm tài liệu đào tạo, hướng dẫn cho các cán bộ, nhà quản lý và doanh nghiệp du lịch, nhằm chuyển hóa tư duy “du lịch khai thác tài nguyên” sang “du lịch kiến tạo hòa bình”.
Tạo cơ sở truyền thông – ngoại giao văn hóa, giúp quảng bá hình ảnh Việt Nam như quốc gia yêu chuộng hòa bình, có trách nhiệm, nhân văn và hiếu khách, nâng tầm thương hiệu quốc gia trong khu vực.
4. Giá trị và hiệu quả tạo ra
Về chiến lược quốc gia: Đề án giúp mở ra hướng đi mới cho ngành du lịch Việt Nam trong thời kỳ hậu công nghiệp – chuyển từ “du lịch tài nguyên” sang “du lịch giá trị nhân văn”.
Về xã hội: Thúc đẩy giáo dục công dân, đặc biệt cho thế hệ trẻ, về hòa bình, sự cảm thông và trách nhiệm cộng đồng.
Về kinh tế: Tạo sản phẩm du lịch có giá trị cao, thu hút phân khúc khách quốc tế quan tâm tới hòa bình, di sản và văn hóa; đa dạng hóa nguồn thu cho địa phương.
Về đối ngoại: Góp phần củng cố vai trò của Việt Nam như “điểm đến đối thoại của thế giới”, phù hợp tinh thần các Nghị quyết của Liên Hợp Quốc và định hướng “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế”. Dự kiến các nội dung chính nghiên cứu của đề án
1. Cơ sở lý luận của du lịch hòa bình
Nghiên cứu khái niệm, bản chất và phạm vi của “du lịch hòa bình” trong bối cảnh toàn cầu; phân biệt với các hình thức du lịch văn hóa, du lịch ký ức, du lịch tâm linh.
Làm rõ giá trị nền tảng của “du lịch hòa bình” gắn với hòa hợp dân tộc – đối thoại quốc tế – phát triển bền vững.
Phân tích sự tương thích giữa tư tưởng du lịch hòa bình và các định hướng chiến lược quốc gia: Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam, và các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs).
Xây dựng khung lý luận về mối quan hệ giữa du lịch, văn hóa và hòa bình trong phát triển quốc gia.
2. Cơ sở thực tiễn tại Việt Nam và quốc tế
Khảo sát các mô hình du lịch gắn với hòa bình, ký ức, hòa giải tại các nước như Nhật Bản (Hiroshima), Hàn Quốc (DMZ Peace Park), Đức (Berlin Wall Memorial), và rút ra bài học cho Việt Nam.
Tổng hợp và phân tích thực trạng các điểm, tuyến, sản phẩm du lịch gắn với hòa bình tại Việt Nam như: Quảng Trị, Côn Đảo, Điện Biên, Hà Giang, TP.HCM – Bình Mỹ,…
Đánh giá mức độ nhận thức, hành vi và nhu cầu của du khách, doanh nghiệp, cộng đồng địa phương đối với loại hình du lịch hòa bình.
Nhận diện các rào cản về cơ chế, hạ tầng, nguồn lực con người và truyền thông trong việc phát triển loại hình này.
3. Xây dựng khung tiêu chí và mô hình phát triển “du lịch hòa bình”
Đề xuất bộ tiêu chí đánh giá và phân loại điểm đến du lịch hòa bình, bao gồm các nhóm:
Tiêu chí về giá trị lịch sử – ký ức – nhân văn
Tiêu chí về mức độ tham gia của cộng đồng và giáo dục hòa bình
Tiêu chí về quản lý, quy hoạch và bảo tồn di sản
Tiêu chí về liên kết vùng và hợp tác quốc tế
Tiêu chí về tác động kinh tế – xã hội – môi trường
Xây dựng mô hình tổ chức phát triển du lịch hòa bình cấp địa phương (gồm: chính quyền, doanh nghiệp, cộng đồng, nhà nghiên cứu, cơ quan ngoại giao).
Đề xuất các loại sản phẩm du lịch hòa bình:
Du lịch ký ức (memory tourism)
Du lịch đối thoại (dialogue tourism)
Du lịch giáo dục hòa bình (peace education tourism)
Du lịch cộng đồng và văn hóa hòa giải (reconciliation tourism)
4. Đề xuất cơ chế, chính sách và lộ trình triển khai
Xác định vai trò của Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng trong phát triển du lịch hòa bình.
Đề xuất các công cụ chính sách, bao gồm: ưu đãi đầu tư, cơ chế hợp tác công – tư, truyền thông – giáo dục công chúng, và tích hợp trong quy hoạch du lịch vùng, tỉnh, quốc gia.
Xây dựng lộ trình 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1 (2025–2026): Nghiên cứu, xác lập mô hình, truyền thông nhận thức.
Giai đoạn 2 (2027–2029): Thí điểm 2–3 mô hình tại các địa phương điển hình.
Giai đoạn 3 (2030–2035): Nhân rộng và chuẩn hóa trong hệ thống quy hoạch du lịch quốc gia.
5. Truyền thông, giáo dục và lan tỏa giá trị hòa bình
Xây dựng chương trình truyền thông “Việt Nam – Điểm đến của Hòa bình”, kết hợp quảng bá du lịch, di sản và văn hóa nhân văn Việt Nam.
Thiết kế chương trình giáo dục hòa bình cho học sinh, sinh viên và hướng dẫn viên du lịch, gắn với di tích lịch sử, lễ hội và câu chuyện địa phương.
Kết nối các tổ chức quốc tế và đại sứ quán để quảng bá, tổ chức hội thảo, diễn đàn quốc tế về du lịch hòa bình tại Việt Nam.
Tiêu chí cần đạt được của đề án
Về khoa học:
Xây dựng và công bố được khung lý luận và định nghĩa chính thức về “du lịch hòa bình” tại Việt Nam.
Hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá điểm đến, mô hình, sản phẩm du lịch hòa bình.
Có ít nhất 03 nghiên cứu tình huống (case study) minh họa cụ thể ở các địa phương tiêu biểu.
Về thực tiễn:
Đề xuất ít nhất 02 mô hình thí điểm khả thi, có thể triển khai thực tế tại các địa phương.
Xây dựng hướng dẫn kỹ thuật và quy trình tổ chức phát triển du lịch hòa bình (cho Sở Du lịch, địa phương, doanh nghiệp).
Về chính sách:
Đưa ra các khuyến nghị cụ thể để Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tích hợp “du lịch hòa bình” vào Chiến lược du lịch quốc gia giai đoạn 2025–2035.
Đề xuất cơ chế hợp tác công – tư và ngoại giao văn hóa phục vụ phát triển du lịch hòa bình.
Về xã hội và truyền thông:
Tạo ra công cụ nhận diện thương hiệu “Peaceful Vietnam” dùng chung trong truyền thông quốc gia.
Tăng cường nhận thức cộng đồng về hòa bình, đối thoại và hợp tác thông qua các hoạt động du lịch, giáo dục và truyền thông.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI “PHÁT TRIỂN DU LỊCH HÒA BÌNH TẠI VIỆT NAM”
1. Bối cảnh toàn cầu và xu hướng phát triển mới
Trong bối cảnh thế giới đang đối diện với nhiều bất ổn về chính trị, xung đột vũ trang, khủng hoảng môi trường và đứt gãy xã hội, hòa bình không chỉ là khát vọng của nhân loại mà còn trở thành giá trị cốt lõi của phát triển bền vững. Nhiều quốc gia đã nhận ra rằng, du lịch không chỉ là ngành kinh tế, mà còn là công cụ xây dựng hòa bình, đối thoại và tái thiết cộng đồng sau xung đột.
Các mô hình như Công viên Hòa bình DMZ (Hàn Quốc), Bảo tàng Hòa bình Hiroshima (Nhật Bản), hay Đường mòn Hòa giải ở Đức và Nam Phi đã chứng minh rằng du lịch có thể trở thành cầu nối giữa ký ức và tương lai, giữa con người và các dân tộc, góp phần củng cố niềm tin và sự hiểu biết lẫn nhau.
Đối với Việt Nam – một đất nước từng trải qua nhiều cuộc chiến tranh, nay được thế giới nhìn nhận là biểu tượng của hòa bình, đoàn kết và lòng nhân ái – việc phát triển du lịch hòa bình vừa là cơ hội chiến lược, vừa là sứ mệnh văn hóa – ngoại giao mang tầm quốc gia.
2. Bối cảnh Việt Nam và nhu cầu đổi mới tư duy du lịch
Du lịch Việt Nam hiện đang trong quá trình tái cấu trúc theo hướng chất lượng, bền vững và nhân văn. Tuy nhiên, các sản phẩm du lịch còn thiếu chiều sâu văn hóa và giá trị tinh thần, trong khi nhiều di tích, ký ức chiến tranh và di sản hòa bình vẫn chưa được khai thác đúng mức.
Các địa phương như Quảng Trị, Điện Biên, Côn Đảo, Bình Mỹ (TP.HCM)… mang trong mình những dấu ấn sâu sắc về hòa giải dân tộc, về quá trình hàn gắn, tái thiết, nhưng vẫn chưa có khung định hướng và mô hình cụ thể để phát triển thành sản phẩm du lịch hòa bình.
Mặt khác, trong thời đại hậu COVID-19, du khách quốc tế có xu hướng tìm đến những điểm đến an toàn, nhân văn, chứa đựng giá trị tinh thần hơn là các loại hình giải trí thuần túy. Do đó, phát triển du lịch hòa bình chính là cách Việt Nam định vị hình ảnh quốc gia mới: một đất nước yêu chuộng hòa bình, hướng đến nhân loại và có trách nhiệm với thế giới.
3. Khoảng trống về lý luận, chính sách và mô hình thực tiễn
Hiện nay, Việt Nam chưa có khung khái niệm chính thức, bộ tiêu chí hay hướng dẫn phát triển du lịch hòa bình, cũng chưa có đề án nghiên cứu nào mang tính tổng hợp về chủ đề này.
Du lịch hòa bình đang tồn tại phân tán trong các mảng nhỏ: du lịch lịch sử, du lịch tâm linh, du lịch cộng đồng…, nhưng thiếu tính hệ thống và định vị chiến lược quốc gia.
Do đó, việc nghiên cứu, xác lập cơ sở lý luận và thực tiễn cho “du lịch hòa bình” là cần thiết và cấp bách, nhằm:
Định hướng cho công tác quy hoạch, đầu tư, quảng bá du lịch.
Góp phần đổi mới chính sách phát triển du lịch văn hóa và ngoại giao nhân dân.
Cung cấp luận cứ khoa học để Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch, các địa phương và doanh nghiệp triển khai các mô hình thí điểm phù hợp.
4. Phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
Đề tài hoàn toàn phù hợp với tinh thần các nghị quyết và chiến lược phát triển quốc gia, cụ thể:
Nghị quyết số 33-NQ/TW (2014) của Trung ương Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam – khẳng định vai trò của văn hóa, hòa bình và nhân văn trong phát triển bền vững.
Nghị quyết số 08-NQ/TW (2017) về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn – nhấn mạnh phát triển du lịch có trách nhiệm, hòa bình, gắn kết cộng đồng.
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 (Quyết định 147/QĐ-TTg ngày 22/01/2020) – khuyến khích phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù, khai thác giá trị văn hóa và lịch sử dân tộc.
Nghị quyết 57/NQ-CP (2023) về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi tư duy trong quản trị công – tạo cơ sở pháp lý cho việc thí điểm mô hình du lịch hòa bình như một sáng kiến xã hội – văn hóa mới.
5. Ý nghĩa chiến lược của đề tài
Về đối nội: tạo công cụ mới để phát triển du lịch văn hóa bền vững, nâng cao hình ảnh địa phương, khôi phục giá trị ký ức lịch sử và gắn kết cộng đồng.
Về đối ngoại: quảng bá hình ảnh Việt Nam như một quốc gia hòa bình, nhân văn, chủ động đóng góp cho hòa bình khu vực và thế giới.
Về xã hội: góp phần giáo dục thế hệ trẻ về lịch sử, nhân ái và tinh thần hòa giải, tạo nền tảng đạo đức – văn hóa cho phát triển lâu dài. 1. Căn cứ và định hướng chính trị
Căn cứ vào:
Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 21/4/2023 của Chính phủ về Đổi mới sáng tạo trong quản lý, điều hành và phát triển kinh tế - xã hội quốc gia;
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước;
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/1/2017 của Bộ Chính trị về Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn;
Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030 (ban hành theo Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 12/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ);
Nghị quyết 68/NQ-CP năm 2022 của Chính phủ về phát huy vai trò khu vực kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế - xã hội, khuyến khích các sáng kiến đồng kiến tạo giữa Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng;
Người thực hiện đề tài trân trọng đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xem xét hướng dẫn, hỗ trợ triển khai đề tài khoa học – thực tiễn cấp cơ sở với chủ đề: “Phát triển Du lịch Hòa bình tại Việt Nam trong bối cảnh mới”.
2. Mục tiêu của đề tài
Xây dựng cơ sở lý luận, thực tiễn và bộ tiêu chí về du lịch hòa bình phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Đề xuất khung chính sách, mô hình và cơ chế hợp tác công – tư – cộng đồng để phát triển du lịch hòa bình như một hướng đi mới của du lịch văn hóa – nhân văn Việt Nam.
Góp phần triển khai Chiến lược phát triển văn hóa và du lịch Việt Nam đến năm 2030, đồng thời hiện thực hóa tinh thần đổi mới tư duy, sáng tạo trong phát triển văn hóa – xã hội theo Nghị quyết 57.
3. Nội dung trọng tâm đề nghị được hướng dẫn và hỗ trợ
Hướng dẫn về phạm vi nghiên cứu và xác lập khung khái niệm “Du lịch Hòa bình” – để bảo đảm tính thống nhất trong toàn ngành.
Hỗ trợ chuyên môn và tham vấn từ các đơn vị thuộc Bộ (Tổng cục Du lịch, Cục Di sản văn hóa, Cục Hợp tác quốc tế, Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam) trong quá trình thiết kế phương pháp, mô hình thí điểm.
Hỗ trợ kết nối các địa phương có tiềm năng xây dựng mô hình du lịch hòa bình (như Quảng Trị, Côn Đảo, Điện Biên, TP.HCM – Bình Mỹ) để tổ chức khảo sát và thực hiện nghiên cứu tình huống.
Tư vấn quy trình đề xuất nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Bộ hoặc chương trình sáng kiến văn hóa – du lịch đổi mới sáng tạo, để bảo đảm tính pháp lý và hiệu quả của kết quả nghiên cứu.
4. Cam kết của cá nhân thực hiện đề tài
Người thực hiện cam kết:
Tự chịu trách nhiệm tổ chức nghiên cứu, tổng hợp tài liệu, và đề xuất mô hình thí điểm trên cơ sở khoa học, khách quan, không sử dụng ngân sách nhà nước khi chưa được phê duyệt chính thức.
Kết quả nghiên cứu sẽ được công bố công khai và sẵn sàng chuyển giao cho các đơn vị quản lý, hoạch định chính sách, địa phương và doanh nghiệp du lịch.
Đề án hướng tới đóng góp cho tầm nhìn chiến lược phát triển văn hóa – du lịch Việt Nam, và thể hiện sáng kiến đổi mới tư duy theo tinh thần Nghị quyết 57/NQ-CP.
5. Kính đề nghị
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch:
Xem xét, hướng dẫn thủ tục và cơ chế tiếp nhận, hỗ trợ đề tài này trong Chương trình nghiên cứu đổi mới sáng tạo về văn hóa – du lịch.
Cử đầu mối chuyên môn (Viện hoặc Cục trực thuộc Bộ) để trao đổi, định hướng nội dung nghiên cứu phù hợp với định hướng chiến lược ngành.
Xin trân trọng cảm ơn và mong nhận được sự quan tâm, hướng dẫn của Bộ.
Có chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác và đa phương hóa; được thế giới nhìn nhận là quốc gia yêu chuộng hòa bình, ổn định.
Có nhiều địa phương đã manh nha hình thành mô hình tương tự:
Khu phi quân sự DMZ Quảng Trị – hành trình từ chiến tranh đến hòa bình;
Hội An, Huế, Côn Đảo – di sản, ký ức và phục hồi văn hóa;
Hà Giang, Sa Pa, Ninh Bình – du lịch cộng đồng gắn với hòa hợp tự nhiên – con người.
→ Những thực tiễn này cho thấy, Du lịch Hòa bình không chỉ phù hợp với bản sắc Việt Nam, mà còn là một định hướng chiến lược để khẳng định vị thế Việt Nam trong thế giới hậu xung đột, đa cực và cần đối thoại.
4. Tính cấp thiết hiện nay
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khủng hoảng niềm tin và cạnh tranh du lịch đại trà, mô hình “Du lịch Hòa bình”:
Giúp tái định vị thương hiệu du lịch Việt Nam: từ “điểm đến rẻ và đẹp” sang “điểm đến an toàn, nhân văn và có chiều sâu giá trị.”
Tạo cầu nối giữa kinh tế du lịch và ngoại giao nhân dân, phù hợp với chiến lược “Việt Nam – Đối tác vì hòa bình và phát triển bền vững.”
Mở ra phân khúc khách du lịch mới: học sinh, nhà nghiên cứu, tín đồ tâm linh, du khách vì môi trường và văn hóa.
Cơ sở lý luận khẳng định: du lịch hòa bình là hình thái cao của du lịch bền vững, gắn với con người, văn hóa và phát triển hài hòa.
Cơ sở thực tiễn chứng minh: nhiều quốc gia đã thành công, và Việt Nam có nền tảng sâu sắc để phát triển mô hình này — vừa phù hợp với lịch sử, vừa mang lại lợi ích kinh tế và ngoại giao.
#
Người gửi: TRƯƠNG NAM THUẬN Thời gian gửi: 20/10/2025
Nam Thuận Trương
18:29 (4 phút trước)
đến VƯƠNG
Việt Nam hoàn toàn có cơ sở để xây dựng và lan tỏa khái niệm “du lịch hòa bình” ra toàn cầu, bởi lịch sử và văn hóa của đất nước đã hình thành tinh thần yêu chuộng hòa bình sâu sắc. Một dân tộc từng trải qua nhiều cuộc chiến, nhưng luôn biết vươn lên từ đổ nát bằng khát vọng hòa hợp, dung hòa và tái thiết, Việt Nam sở hữu một vị thế đạo đức đặc biệt khi nói về hòa bình. Hình ảnh đất nước mở lòng đón khách, giàu truyền thống hiếu khách và gắn bó với thiên nhiên, cộng đồng chính là nền tảng để khẳng định thông điệp này. Du lịch hòa bình không chỉ là tham quan hay giải trí, mà là trải nghiệm nhân văn, nơi du khách được kết nối sâu sắc với thiên nhiên, cộng đồng và những giá trị phổ quát của nhân loại. Việt Nam có thể phát triển một hệ sinh thái du lịch hòa bình đa tầng, từ những không gian thiên nhiên yên bình như rừng nguyên sinh, bãi biển trong lành, cánh đồng lúa, con sông hiền hòa, đến các hoạt động giao lưu văn hóa, lễ hội, âm nhạc, ẩm thực và nghệ thuật truyền thống. Du khách không chỉ quan sát mà còn tham gia, sẻ chia, đóng góp vào các hoạt động bảo tồn môi trường, giáo dục, chăm sóc cộng đồng, biến chuyến đi thành hành trình nhân văn và để lại dấu ấn tích cực.
Lợi thế của Việt Nam nằm ở sự kết hợp giữa thiên nhiên, văn hóa, lịch sử và giá trị nhân văn mà ít quốc gia nào có được. Trong khi nhiều nước tập trung vào du lịch nghỉ dưỡng, văn hóa hay sinh thái riêng lẻ, du lịch hòa bình Việt Nam tổng hòa tất cả các yếu tố: vừa mang trải nghiệm an nhiên, vừa nuôi dưỡng tinh thần hòa hợp, vừa lan tỏa thông điệp nhân văn và hợp tác quốc tế. Việt Nam không chỉ có ký ức chiến tranh, mà còn có câu chuyện vượt lên bằng hòa bình, tạo nên uy tín đạo đức đặc biệt trên thế giới. Khi du lịch hòa bình trở thành thương hiệu quốc gia, Việt Nam khẳng định vị thế của mình: một đất nước nhỏ bé nhưng giàu khát vọng, từ trải nghiệm chiến tranh đến lan tỏa hòa bình toàn cầu.
Để hiện thực hóa tầm nhìn này, cần xây dựng hệ sinh thái toàn diện: thiên nhiên bảo tồn, giao lưu văn hóa, dịch vụ xã hội, không gian đối thoại quốc tế, và cơ chế phối hợp giữa nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng. Du khách trở thành những “sứ giả hòa bình”, vừa trải nghiệm, vừa đồng hành, kiến tạo giá trị chung. Việt Nam sẽ trở thành điểm đến của những công dân toàn cầu yêu hòa bình, nơi họ tìm thấy sự an nhiên, cơ hội tham gia các hành động ý nghĩa và mang câu chuyện hòa bình lan tỏa ra thế giới.
Điều đặc biệt là, giá trị bền vững của du lịch hòa bình không nằm ở cơ sở vật chất hay vốn đầu tư, mà nằm ở hạ tầng vô hình: tâm lý khoan dung, yêu hòa bình và sự hiếu khách của người Việt. Đây là tài sản quốc gia hiếm có, đủ sức tạo sức hút mà không cần phô trương. Khi những giá trị này được gìn giữ và truyền đi, mọi sản phẩm và dịch vụ du lịch khác sẽ tự nhiên được nâng tầm, biến Việt Nam thành thương hiệu không thể sao chép: điểm đến của hòa bình, nhân văn và sự khác biệt được trân trọng.
Côn Đảo là một quần đảo độc đáo, không chỉ nổi bật bởi cảnh quan thiên nhiên nguyên sơ mà còn bởi chiều sâu lịch sử và giá trị văn hóa – nhân văn đặc biệt. Trong nửa đầu năm 2025, Côn Đảo đã đón gần 400.000 lượt khách, tăng hơn 22% so với cùng kỳ năm trước, doanh thu đạt khoảng 71 triệu USD. Đây là minh chứng cho sức hút du lịch mạnh mẽ, nhưng đồng thời cũng bộc lộ những hạn chế rõ rệt: hạ tầng giao thông chưa phát triển đồng bộ, các tuyến phà từ đất liền gián đoạn, một số bãi biển công cộng bị chặn bởi các resort cao cấp, trong khi sản phẩm du lịch chủ yếu thiên về tâm linh và nghỉ dưỡng, thiếu sự đa dạng về trải nghiệm văn hóa, nghệ thuật và giáo dục cộng đồng.
Căn cứ vào những thực tế này, Côn Đảo hội tụ ba yếu tố quan trọng để trở thành điểm đến du lịch hòa bình – nghệ thuật. Thứ nhất, đây là biểu tượng lịch sử quốc gia và nhân loại. Trong thế kỷ XX, Côn Đảo từng là “địa ngục trần gian”, giam giữ hàng vạn chiến sĩ cách mạng, trí thức và văn nghệ sĩ. Những nhà tù, chuồng cọp và di tích lịch sử không chỉ ghi dấu nỗi đau của quá khứ mà còn khắc sâu khát vọng hòa bình và tự do. Việc phát triển du lịch hòa bình tại đây không chỉ giúp du khách tham quan mà còn sống trong không gian ký ức, đối thoại với lịch sử và chiêm nghiệm giá trị nhân văn sâu sắc.
Thứ hai, Côn Đảo sở hữu hệ sinh thái biển – rừng phong phú, với rạn san hô, cỏ biển, rừng nguyên sinh và các loài động vật quý hiếm như rùa biển và đồi mồi. Không gian thiên nhiên nguyên sơ này tạo điều kiện cho các hoạt động du lịch sinh thái và bảo tồn, đồng thời là môi trường lý tưởng để phát triển các trải nghiệm nghệ thuật và giáo dục cộng đồng, giúp du khách nhận thức sâu sắc mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, đồng thời nâng tầm thông điệp hòa bình từ một giá trị tinh thần sang hành động cụ thể.
Thứ ba, vị trí biệt lập nhưng vẫn dễ tiếp cận từ đất liền giúp Côn Đảo vừa duy trì sự tĩnh lặng cần thiết cho chiêm nghiệm và trải nghiệm nghệ thuật, vừa đảm bảo khả năng triển khai các dự án mới mà không chịu áp lực thương mại hóa quá sớm. Đây là yếu tố chiến lược để Côn Đảo trở thành mô hình “hòn đảo hòa bình” mang tầm quốc tế.
Về cơ sở thực tiễn, Côn Đảo đang triển khai nhiều sáng kiến phát triển bền vững: chương trình “Không rác nhựa”, bảo tồn rùa biển, phát triển du lịch sinh thái và tâm linh, đồng thời có cơ chế hợp tác công – tư cho các dự án bảo tồn và du lịch. Về lý luận, du lịch hòa bình kết hợp giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật với bảo tồn thiên nhiên, tạo ra trải nghiệm đa tầng, nuôi dưỡng văn hóa, giáo dục và tinh thần đối thoại nhân văn.
Hành lang pháp lý cho mô hình này đã tương đối đầy đủ. Quyết định 495/QĐ-UBND của tỉnh Ba Rịa – Vũng Tàu phê duyệt mô hình kinh tế tuần hoàn, đặt mục tiêu xử lý chất thải, sử dụng năng lượng tái tạo và tái chế tài nguyên. Kế hoạch phát triển du lịch sinh thái đến 2030 cho phép mở các khu du lịch sinh thái kết hợp bảo tồn, giữ nguyên quyền sở hữu rừng, đồng thời khuyến khích hợp tác công – tư. Luật Lâm nghiệp 2017, Luật Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, cùng các nghị định liên quan, bảo đảm sự cân bằng giữa bảo tồn và phát triển. Ban Quản lý Khu du lịch Quốc gia Côn Đảo, Vườn Quốc gia và UBND tỉnh có cơ chế phối hợp triển khai các chính sách và quản lý dự án, đảm bảo tính khả thi và bền vững cho các sáng kiến mới.
Dựa trên những cơ sở này, tầm nhìn phát triển Côn Đảo được định hướng thành trung tâm du lịch – nghệ thuật vì hòa bình của Việt Nam và Đông Nam Á, với Công viên Nghệ thuật Hòa bình quy mô quốc tế làm hạt nhân. Các mục tiêu cụ thể gồm: xây dựng không gian nghệ thuật quốc tế, hình thành hệ sinh thái du lịch – nghệ thuật đa tầng, tái định vị thương hiệu Côn Đảo thành “hòn đảo hòa bình – sáng tạo – hồi sinh tinh thần”, và phát triển hệ sinh thái sáng tạo gắn kết cộng đồng, doanh nghiệp và quốc tế. Các mục tiêu được triển khai theo lộ trình ngắn, trung và dài hạn, với các chỉ số đo lường rõ ràng về diện tích công viên, số lượng công trình nghệ thuật, số khách tham quan, doanh thu ngành dịch vụ nghệ thuật, dự án cộng đồng và nghệ sĩ tham gia.
Côn Đảo, với sự hội tụ của giá trị lịch sử, thiên nhiên nguyên sơ, vị trí chiến lược, cơ sở pháp lý vững chắc và nền tảng thực tiễn về du lịch bền vững, là lựa chọn chiến lược để phát triển mô hình du lịch hòa bình – nghệ thuật. Dự án không chỉ tạo ra giá trị kinh tế mà còn lan tỏa giá trị văn hóa, giáo dục, nhân văn và môi trường, đưa Côn Đảo trở thành hình mẫu du lịch toàn cầu, góp phần bảo tồn thiên nhiên, nuôi dưỡng cộng đồng và thúc đẩy đối thoại hòa bình quốc tế.
Trên thế giới, nhiều địa điểm đã phát triển công viên, bảo tàng và không gian nghệ thuật gắn với ký ức lịch sử, hòa bình và giáo dục, trở thành điểm đến quốc tế với tầm ảnh hưởng sâu rộng. Hiroshima Peace Memorial Park ở Nhật Bản, diện tích khoảng 12 ha, đón hơn 1,5 triệu khách mỗi năm, kết hợp tưởng niệm nạn nhân bom nguyên tử, bảo tàng, tượng đài và các sự kiện quốc tế về giải trừ vũ khí hạt nhân. Tại Mỹ, Grounds for Sculpture (New Jersey, 17 ha) phục vụ hơn 250.000 lượt khách/năm, tập trung vào điêu khắc ngoài trời, workshop, sự kiện nghệ thuật, vận hành theo mô hình phi lợi nhuận nhưng tự chủ tài chính. Olympic Sculpture Park ở Seattle (~3,6 ha) cung cấp nghệ thuật công cộng miễn phí, gắn kết cộng đồng và thiên nhiên, trong khi Jeju 4.3 Peace Park tại Hàn Quốc (33 ha) tưởng niệm thảm sát lịch sử, kết hợp bảo tàng, nghệ thuật thị giác và lễ hội văn hóa. Tại Trung Quốc, Changchun World Sculpture Park (~92 ha) là điểm đến quốc tế với hơn 340 tác phẩm từ 130 quốc gia, phục vụ 2–3 triệu lượt khách/năm, kết hợp triển lãm, hội nghị và dịch vụ phụ trợ. Ở Anh, Yorkshire Sculpture Park (~202 ha) vận hành như “bảo tàng ngoài trời”, hơn 80 tác phẩm điêu khắc, thu hút nửa triệu lượt khách/năm. Inhotim tại Brazil (140 ha công cộng) và Imagine Peace Tower ở Iceland cho thấy những mô hình kết hợp thiên nhiên, nghệ thuật đương đại và thông điệp hòa bình, lan tỏa ra toàn cầu. Tại Pháp, Gardens of Peace biến các chiến trường Thế chiến thành khu vườn hòa bình, nhấn mạnh sự chuyển hóa ký ức đau thương thành cảnh quan nghệ thuật.
Nhìn chung, các mô hình này đều có một số đặc điểm chung: quy mô đủ lớn để thu hút khách quốc tế (thường ≥50 ha), kết hợp ký ức lịch sử, nghệ thuật đương đại và thiên nhiên; vận hành đa nguồn thu, không chỉ từ vé mà còn từ dịch vụ phụ trợ, sự kiện và tài trợ; có thông điệp xuyên biên giới, trở thành biểu tượng toàn cầu về hòa bình, sáng tạo và giáo dục.
Đối với Côn Đảo, những bài học này chỉ ra các hướng đi thực tiễn quan trọng. Trước hết, cần xây dựng Công viên Nghệ thuật Hòa bình với diện tích đủ lớn (tối thiểu 50–100 ha) để có sức hút quốc tế, kết hợp cảnh quan thiên nhiên nguyên sơ, di tích lịch sử, và các tác phẩm nghệ thuật đương đại. Thứ hai, chiến lược tài chính cần đa dạng: vé tham quan kết hợp dịch vụ phụ trợ như ẩm thực, lưu trú, shop nghệ thuật, sự kiện, workshop và lễ hội quốc tế, nhằm đảm bảo doanh thu bền vững. Thứ ba, Côn Đảo cần định hình thông điệp riêng, “hòn đảo ký ức, hòa bình, nghệ thuật và tái sinh”, đồng thời liên kết mạng lưới quốc tế thông qua các tổ chức bảo tàng hòa bình, thành phố vì hòa bình và UNESCO Creative Cities Network. Thứ tư, chiến lược phát triển phải gắn kết các yếu tố du lịch – nghệ thuật – giáo dục – sinh thái, vừa bảo tồn thiên nhiên, vừa tạo trải nghiệm sáng tạo và lan tỏa giá trị nhân văn. Cuối cùng, cơ chế quản lý nên hình thành Ban Điều phối Hòa bình Côn Đảo, kết hợp Nhà nước, nghệ sĩ, doanh nghiệp và cộng đồng, đồng thời xây dựng quỹ quốc tế để huy động nguồn lực, sản xuất các chương trình truyền thông, triển lãm lưu động, tạo sức lan tỏa toàn cầu.
Như vậy, Côn Đảo có thể trở thành biểu tượng hòa bình và tái sinh của khu vực, bổ sung vào mạng lưới các công viên hòa bình thế giới, vừa thu hút khách quốc tế, vừa tích tụ giá trị lịch sử, nghệ thuật, thiên nhiên và cộng đồng, tạo lộ trình phát triển dài hạn, sâu sắc và bền vững.
Đề án “Công viên Nghệ thuật Hòa bình Côn Đảo” thực sự là một bước đột phá trong phát triển văn hóa, du lịch và môi trường ở Việt Nam, bởi nó không chỉ mang tính biểu tượng mà còn có chiều sâu chiến lược lâu dài. Điểm đột phá đầu tiên nằm ở cách tiếp cận đa chiều, kết hợp ký ức lịch sử – nghệ thuật đương đại – thiên nhiên. Khác với những dự án tưởng niệm truyền thống chỉ tập trung vào việc bảo tồn di tích hay ghi nhớ nỗi đau quá khứ, Côn Đảo được định hình thành một không gian sống động, nơi ký ức chiến tranh được chuyển hóa thành trải nghiệm sáng tạo thông qua các tác phẩm điêu khắc, triển lãm tương tác, các workshop nghệ thuật và lễ hội quốc tế. Không gian này vừa giúp người tham quan nhận thức giá trị lịch sử, vừa tạo ra sự chữa lành tinh thần, đồng thời giữ gìn và tôn vinh thiên nhiên nguyên sơ, từ đó tạo ra một trải nghiệm có sức lan tỏa quốc tế.
Điểm đột phá thứ hai là mô hình vận hành đa bên, với sự tham gia đồng thời của Nhà nước, nghệ sĩ, doanh nghiệp và cộng đồng. Thông thường, các điểm đến tưởng niệm hoặc di tích ở Việt Nam phụ thuộc chủ yếu vào ngân sách nhà nước, khiến việc vận hành bị hạn chế về nguồn lực và tính sáng tạo. Ở Côn Đảo, Nhà nước đóng vai trò định hướng và quản lý tổng thể, nghệ sĩ và các tổ chức văn hóa quốc tế sáng tạo nội dung và tổ chức các chương trình nghệ thuật, doanh nghiệp tư nhân đầu tư và khai thác dịch vụ, còn cộng đồng địa phương tham gia trực tiếp vào các hoạt động hướng dẫn, trải nghiệm và dịch vụ du lịch sinh thái. Cơ chế này không chỉ tháo gỡ điểm nghẽn về tài chính, nguồn lực và chuyên môn quản lý, mà còn giúp tối ưu hóa lợi ích kinh tế – xã hội, tạo việc làm và thúc đẩy sự tham gia của người dân.
Đề án còn góp phần rõ ràng vào bảo vệ môi trường và phát triển văn hóa. Cảnh quan thiên nhiên của đảo được bảo tồn nguyên trạng, gắn với các hoạt động giáo dục sinh thái và trải nghiệm văn hóa ngoài trời. Đồng thời, các sự kiện nghệ thuật quốc tế, triển lãm, workshop và lễ hội hòa bình truyền tải thông điệp về hòa bình, hợp tác và tái sinh, giúp Côn Đảo trở thành điểm đến văn hóa mang tầm quốc tế, khẳng định vai trò của Việt Nam trong việc xây dựng giá trị văn hóa, hòa giải và sáng tạo.
Cơ sở thực tiễn để xây dựng đề án “Công viên Nghệ thuật Hòa bình Côn Đảo” là rất rõ ràng. Trước hết, Côn Đảo sở hữu giá trị lịch sử – văn hóa đặc thù, với các di tích nhà tù, mộ liệt sĩ và câu chuyện chiến tranh khốc liệt, tạo nền tảng để phát triển một không gian tưởng niệm có chiều sâu và khác biệt so với các điểm tưởng niệm truyền thống khác. Đồng thời, cảnh quan thiên nhiên nguyên sơ, bờ biển đẹp, rừng ngập mặn và hệ sinh thái đa dạng là lợi thế hiếm có, cho phép kết hợp trải nghiệm nghệ thuật, giáo dục sinh thái và du lịch bền vững.
Tính khẩn cấp và cần thiết của dự án được đặt trong bối cảnh hiện nay: Côn Đảo vẫn còn hạn chế về cơ sở hạ tầng du lịch văn hóa tầm quốc tế và chưa phát huy hết tiềm năng của mình. Thời điểm này, khi Việt Nam đang đẩy mạnh chiến lược phát triển du lịch chất lượng cao, khẳng định hình ảnh văn hóa, hòa bình và sáng tạo của đất nước, dự án sẽ đóng vai trò như một cú hích chiến lược để Côn Đảo vươn ra thị trường quốc tế. Sự kết hợp giữa ký ức lịch sử, nghệ thuật đương đại và thiên nhiên cũng phù hợp với xu hướng toàn cầu về du lịch trải nghiệm, bảo tồn và sáng tạo, giúp Côn Đảo không chỉ ghi dấu lịch sử mà còn trở thành điểm đến mang thông điệp nhân văn, giáo dục và môi trường.
Về mặt bối cảnh chính sách, dự án phù hợp với tinh thần Nghị quyết 57 về đổi mới sáng tạo và Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân. Việc huy động sự tham gia của các bên: Nhà nước định hướng, nghệ sĩ sáng tạo nội dung, doanh nghiệp khai thác dịch vụ, cộng đồng tham gia trực tiếp, là một mô hình hiện đại, hiệu quả, khắc phục những hạn chế truyền thống trong quản lý dự án văn hóa. Hơn nữa, thời điểm hiện nay, với nhu cầu quốc tế hóa văn hóa, tăng cường hội nhập và quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới, việc triển khai dự án là đúng lúc, kịp thời và hợp bối cảnh, vừa tạo giá trị kinh tế – xã hội, vừa phát huy tầm vóc văn hóa, môi trường và nhân văn cho đất nước.
Như vậy, đột phá của đề án không chỉ là ý tưởng mới mẻ hay quy mô lớn, mà nằm ở khả năng kết nối đa bên, tháo gỡ các điểm nghẽn về quản lý, tài chính và nguồn lực, đồng thời tạo ra giá trị nhân văn – môi trường – văn hóa bền vững. Côn Đảo nhờ đó có thể trở thành biểu tượng hòa bình, tái sinh và nghệ thuật của Việt Nam, lan tỏa sức ảnh hưởng ra cộng đồng quốc tế và trở thành một minh chứng sống động cho sự kết hợp giữa ký ức, sáng tạo và phát triển bền vững
Đề án “Công viên Nghệ thuật Hòa bình Côn Đảo” được xác định là một điểm sáng, một bước đột phá trong phát triển sản phẩm du lịch của TP.HCM, bởi nó vừa khai thác giá trị lịch sử – văn hóa, vừa kết hợp nghệ thuật, giáo dục và bảo tồn sinh thái, tạo nên một trải nghiệm du lịch toàn diện, khác biệt và mang tính chiến lược. Sản phẩm này không chỉ là nơi tham quan, mà còn là trung tâm trải nghiệm, nơi truyền tải thông điệp nhân văn về hòa bình, hòa giải và sáng tạo, đồng thời đóng vai trò là cầu nối giữa Việt Nam và cộng đồng quốc tế.
Khái niệm “du lịch hòa bình” mà đề án hướng tới mang đặc trưng riêng biệt: đây là loại hình du lịch gắn với tưởng niệm, giáo dục và trải nghiệm, nhấn mạnh giá trị tinh thần, tri thức và đạo đức xã hội. Du lịch hòa bình khác biệt với du lịch truyền thống ở chỗ không chỉ phục vụ nhu cầu giải trí hay tham quan mà còn tạo ra trải nghiệm sâu sắc về lịch sử, văn hóa và hòa bình. Quy mô của loại hình này có thể từ các khu di tích nhỏ đến các công viên nghệ thuật rộng hàng chục đến hàng trăm ha, phục vụ hàng trăm nghìn đến triệu lượt khách mỗi năm, đảm bảo khả năng giáo dục, lan tỏa và thu hút quốc tế.
Nội dung cốt lõi của du lịch hòa bình bao gồm bốn trụ cột: tưởng niệm và chuyển hóa ký ức, giáo dục và trải nghiệm văn hóa, hòa giải và kết nối cộng đồng, và bảo tồn sinh thái bền vững. Bốn nguyên lý cấu thành của nó là: sự kết hợp chặt chẽ giữa ký ức – hòa bình – giáo dục – sáng tạo; liên ngành trong nghệ thuật, giáo dục, du lịch và môi trường; phân bổ vai trò rõ ràng giữa nhà nước, doanh nghiệp, nghệ sĩ và cộng đồng; cùng với tính bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường. Khái niệm này có liên đới chặt chẽ với các loại hình du lịch văn hóa, du lịch di sản và du lịch trải nghiệm, nhưng vượt trội ở chỗ nhấn mạnh sứ mệnh nhân văn và giáo dục hòa bình.
Về mặt pháp lý, du lịch hòa bình hoàn toàn phù hợp với hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, bao gồm các quy định về bảo tồn di tích, phát triển du lịch bền vững, bảo vệ môi trường và khuyến khích đầu tư tư nhân. Đề án tận dụng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 57 về đổi mới sáng tạo và Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân, đồng thời kết hợp trách nhiệm của các bên liên quan: nhà nước định hướng và giám sát, doanh nghiệp tư nhân đầu tư cơ sở hạ tầng và dịch vụ, nghệ sĩ và tổ chức văn hóa sáng tạo nội dung, cộng đồng địa phương tham gia duy trì cảnh quan và văn hóa, các tổ chức quốc tế hỗ trợ hợp tác và nâng tầm giá trị quốc tế.
Đột phá của đề án nằm ở khả năng kết hợp nhiều giá trị trong một sản phẩm du lịch duy nhất, vừa phát huy tiềm năng thiên nhiên, vừa bảo tồn và chuyển hóa lịch sử, vừa tạo trải nghiệm nghệ thuật và giáo dục, đồng thời thiết lập mạng lưới liên kết quốc tế. Nó tháo gỡ những điểm nghẽn lâu nay của Côn Đảo như khai thác di sản chưa đầy đủ, thiếu sản phẩm du lịch chất lượng cao, chưa tận dụng tối đa tiềm năng thiên nhiên và giá trị lịch sử, đồng thời tạo ra cơ chế vận hành bền vững, hài hòa giữa nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng.
Hướng đi này cũng trực tiếp góp phần vào thông điệp bảo vệ môi trường và phát triển văn hóa của Việt Nam trong tương lai. Bằng cách kết hợp du lịch – giáo dục – nghệ thuật – sinh thái, dự án không chỉ thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân và đổi mới sáng tạo, mà còn định vị Việt Nam là quốc gia có tiếng nói về hòa giải, hòa hợp và sáng tạo văn hóa trên bản đồ quốc tế. Chính vì vậy, việc triển khai đề án vào thời điểm hiện tại là khẩn thiết, cần thiết và hoàn toàn phù hợp với bối cảnh xã hội – kinh tế – văn hóa, mang tính cấp bách nhưng cũng chiến lược lâu dài, đặt nền móng cho một sản phẩm du lịch mang tầm quốc tế, đồng thời nâng tầm giá trị nhân văn của Côn Đảo và TP.HCM
Mục tiêu tăng trưởng khách du lịch của Côn Đảo, gắn với chiến lược phát triển du lịch hòa bình, không chỉ nhằm nâng cao số lượng lượt khách mà còn hướng tới tạo ra nguồn khách tới hạn – tức là một lượng khách ổn định, quốc tế, có khả năng chi tiêu cao và tham gia vào các trải nghiệm sâu sắc về văn hóa, lịch sử, nghệ thuật và sinh thái. Trong giai đoạn đầu, mục tiêu có thể đạt 500.000–1 triệu lượt khách/năm trong vòng 10–15 năm, với trọng tâm là du khách quốc tế, học sinh – sinh viên, nhà nghiên cứu, tổ chức phi chính phủ và đoàn ngoại giao, nhằm thiết lập vị thế Côn Đảo như điểm đến hòa bình hàng đầu khu vực Đông Nam Á và tiến tới tầm ảnh hưởng quốc tế.
Để đạt được mục tiêu này, Côn Đảo cần xây dựng cơ sở vật chất và hệ sinh thái dịch vụ đồng bộ. Về cơ sở hạ tầng, cần có hệ thống đường giao thông nội đảo chất lượng cao, bến cảng và sân bay phù hợp, các tuyến đi bộ, khu trưng bày ngoài trời và bảo tàng, trung tâm hội thảo, các khu lưu trú đa dạng từ khách sạn 4–5 sao đến homestay gắn với cộng đồng, cùng các điểm ăn uống, dịch vụ giải trí, cửa hàng lưu niệm và không gian thiền định – nghệ thuật. Về hệ sinh thái dịch vụ, cần hình thành các tour trải nghiệm có hướng dẫn chuyên nghiệp, workshop nghệ thuật, chương trình giáo dục, các lễ hội văn hóa, và hệ thống quản lý du lịch bền vững, thân thiện môi trường. Tất cả các thành tố này phải được kết nối mạch lạc, đảm bảo du khách có trải nghiệm liên tục, đồng thời tạo ra doanh thu đa nguồn để dự án tự duy trì tài chính.
Trong bối cảnh thế giới đầy bất an, từ biến đổi khí hậu đến xung đột chính trị, du lịch hòa bình tại Côn Đảo có thể tạo ra hiệu ứng lan tỏa lớn, vừa về kinh tế vừa về xã hội và nhân văn. Về kinh tế, dự án sẽ thu hút đầu tư tư nhân, khuyến khích doanh nghiệp tham gia, tạo việc làm địa phương, thúc đẩy các ngành phụ trợ như ẩm thực, thủ công mỹ nghệ, vận tải và dịch vụ. Về xã hội và văn hóa, công viên hòa bình sẽ lan tỏa thông điệp hòa giải, hợp tác quốc tế và bảo vệ thiên nhiên, đồng thời nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị lịch sử, tôn giáo, nghệ thuật và sinh thái. Côn Đảo sẽ trở thành một mạng lưới điểm đến toàn cầu, kết nối với các công viên hòa bình, bảo tàng và trung tâm nghệ thuật quốc tế, tạo sức hút và uy tín lâu dài.
Chiến lược truyền thông cho Côn Đảo cần xây dựng trên ba trụ cột chính. Thứ nhất, xây dựng thương hiệu quốc tế: Côn Đảo – “Đảo Hòa bình và Nghệ thuật” – với logo, khẩu hiệu, tác phẩm biểu tượng riêng và bộ câu chuyện truyền thông gắn với lịch sử, thiên nhiên và sáng tạo. Thứ hai, lan tỏa nội dung thông qua nhiều kênh: báo chí quốc tế, mạng xã hội, livestream, phim tài liệu, triển lãm du động và hợp tác với các tổ chức quốc tế như UNESCO, INMP, Mayors for Peace. Thứ ba, tổ chức sự kiện định kỳ và lễ hội quốc tế: Peace & Art Biennale, các workshop nghệ thuật – giáo dục, sự kiện thiền – sinh thái để tạo điểm nhấn định kỳ, thu hút cộng đồng quốc tế và thiết lập mạng lưới đại sứ hòa bình, nghệ sĩ và trí thức toàn cầu.
Để thích ứng với khái niệm du lịch hòa bình, quy hoạch Côn Đảo cần được điều chỉnh theo các hướng sau: mở rộng khu vực đất dành cho công viên nghệ thuật, bảo tàng và khu trưng bày ngoài trời; phân vùng hợp lý giữa khu bảo tồn thiên nhiên, khu lịch sử và khu dịch vụ; ưu tiên cơ sở hạ tầng thân thiện môi trường; bố trí các tuyến tham quan trải nghiệm liên hoàn, an toàn và hấp dẫn; và thiết lập cơ chế quản lý liên ngành, bao gồm nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng và nghệ sĩ. Ngoài ra, quy hoạch cần tích hợp các yếu tố quốc tế như tiêu chuẩn bảo tồn, trải nghiệm giáo dục và nghệ thuật, đảm bảo tính bền vững, hấp dẫn và khả năng lan tỏa toàn cầu.
Như vậy, chiến lược tăng trưởng khách du lịch hòa bình tại Côn Đảo không chỉ là một sản phẩm du lịch đặc thù, mà còn là một cơ chế liên kết toàn diện, tháo gỡ các điểm nghẽn về hạ tầng, dịch vụ và định vị quốc tế, đồng thời củng cố thông điệp về hòa bình, sáng tạo, bền vững và hợp tác quốc tế, phù hợp với xu hướng phát triển du lịch có giá trị nhân văn trong thế kỷ 21
Đối với cấp Trung ương, để triển khai hiệu quả loại hình du lịch hòa bình tại Côn Đảo, cần có những cơ chế thí điểm rõ ràng, đồng bộ và mang tính chiến lược, nhằm tháo gỡ các rào cản pháp lý, tài chính và vận hành. Trước hết, Trung ương cần ban hành cơ chế thí điểm đón tiếp khách quốc tế, cho phép Côn Đảo thực hiện các quy trình thông thoáng nhưng vẫn an toàn về xuất nhập cảnh, visa và kiểm soát an ninh. Điều này giúp hòn đảo có thể trở thành điểm đến hòa bình mang tầm quốc tế mà không bị bó buộc bởi các quy định cứng nhắc áp dụng chung cho các khu du lịch nội địa khác.
Về lưu trú và dịch vụ liên quan, cần có cơ chế thí điểm cho phép hình thành các khu lưu trú đặc thù, kết hợp với nghệ thuật, thiền, trải nghiệm sinh thái, và du lịch văn hóa. Những khu này có thể vận hành theo cơ chế linh hoạt trong cấp phép, quản lý chất lượng dịch vụ, giá cả và an toàn, nhưng vẫn tuân thủ các chuẩn mực về môi trường và bảo tồn di sản.
Về nội dung nghệ thuật và kết nối toàn cầu, Trung ương cần cho phép Côn Đảo thực hiện thí điểm các chương trình trưng bày, triển lãm, lễ hội nghệ thuật quốc tế mà không bị hạn chế quá mức bởi các quy định hiện hành về biểu diễn, xuất bản, bản quyền hay bảo vệ di sản. Cơ chế này cần đảm bảo các chương trình nghệ thuật được kiểm soát để phù hợp với thông điệp hòa bình và văn hóa Việt Nam, nhưng đồng thời đủ linh hoạt để thu hút nghệ sĩ, chuyên gia và tổ chức quốc tế tham gia, từ đó xây dựng thương hiệu Côn Đảo trên bản đồ nghệ thuật toàn cầu.
Về vốn và nguồn lực khác, Trung ương nên chỉ đạo thành lập Quỹ Hòa bình Côn Đảo, huy động nguồn lực từ ngân sách nhà nước, quỹ quốc tế, tài trợ doanh nghiệp, đóng góp cộng đồng và các chương trình CSR. Cơ chế thí điểm cần cho phép quỹ này có quyền linh hoạt trong đầu tư, tổ chức sự kiện, phát triển cơ sở hạ tầng và hỗ trợ các dự án sáng tạo đi kèm, đảm bảo tính bền vững tài chính.
Ngoài ra, Trung ương cần hướng dẫn cơ chế hợp tác quốc tế: ký kết thỏa thuận song phương và đa phương với các công viên hòa bình, bảo tàng quốc tế, mạng lưới nghệ thuật và các tổ chức UNESCO, để Côn Đảo có thể tham gia các sự kiện, triển lãm lưu động, trao đổi nghệ sĩ và chia sẻ kinh nghiệm vận hành.
Chiến lược phát triển du lịch hòa bình tại Côn Đảo cần được tiếp cận một cách nhẹ nhàng nhưng kiên định, như dòng chảy của lịch sử và thiên nhiên nơi đây. Ở cấp UBND TP.HCM, kiến nghị là cần nhìn nhận Côn Đảo không chỉ là một điểm đến du lịch, mà còn là một biểu tượng văn hóa, hòa bình và tái sinh. UBND cần phê duyệt đề án tổng thể, định hướng quy hoạch, huy động nguồn lực, và bảo đảm kết nối hạ tầng từ TP.HCM ra Côn Đảo, từ cảng biển đến sân bay, để hòn đảo nhỏ có thể đón những bước chân khách quốc tế một cách an toàn và thuận tiện. Đồng thời, UBND cần tích hợp dự án vào chiến lược phát triển du lịch và quy hoạch đô thị, kết nối tour quốc tế với các điểm du lịch khác trong vùng, và thiết lập Quỹ Hòa bình Côn Đảo, huy động vốn từ doanh nghiệp tư nhân, cộng đồng và tài trợ quốc tế, tạo nền tảng tài chính vững chắc cho các hoạt động lâu dài.
Ở cấp Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, vai trò là người định hướng tiêu chuẩn văn hóa – du lịch và kết nối quốc tế. Bộ cần công nhận Côn Đảo là điểm đến du lịch hòa bình, đồng thời hướng dẫn các tiêu chuẩn vận hành bảo tàng, công viên nghệ thuật và các khu trưng bày ngoài trời, đảm bảo phù hợp với pháp luật về di sản văn hóa và bảo tồn môi trường. Bộ cũng có thể hỗ trợ kết nối Côn Đảo với mạng lưới bảo tàng hòa bình quốc tế, các công viên nghệ thuật và UNESCO Creative Cities, đồng thời xúc tiến truyền thông quốc tế, giới thiệu Côn Đảo là một điểm đến hòa bình đặc thù của châu Á, nơi ký ức, nghệ thuật và thiên nhiên hội tụ.
Ở cấp Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP.HCM, cần cụ thể hóa các chương trình triển khai: xây dựng kế hoạch bảo trì, quản lý công viên nghệ thuật, tổ chức lễ hội, workshop, các sự kiện trải nghiệm nghệ thuật – thiền – sinh thái. Sở cần kết nối các doanh nghiệp địa phương để phát triển hệ sinh thái dịch vụ – từ lưu trú, ẩm thực, vận chuyển, đến sản phẩm lưu niệm – bảo đảm mỗi trải nghiệm của du khách là một hành trình đầy cảm xúc, an toàn và bền vững.
Và ở cấp lãnh đạo đặc khu Côn Đảo, kiến nghị tập trung vào việc vận hành thực tiễn: thành lập Ban Quản lý Hòa bình Côn Đảo với sự tham gia của chính quyền địa phương, nghệ sĩ, doanh nghiệp, cộng đồng và các đối tác quốc tế. Ban quản lý sẽ đảm bảo từng chi tiết từ việc bảo tồn thiên nhiên, bảo quản nghệ thuật, tổ chức sự kiện, đến giao tiếp với khách quốc tế, để Côn Đảo thực sự trở thành “thủ đô nghệ thuật ngoài trời” của hòa bình, nơi ký ức đau thương được chuyển hóa, nơi thiên nhiên và văn hóa cùng tái sinh.
Nhìn tổng thể, từng cấp quản lý, từ TP.HCM, Bộ, Sở đến đặc khu Côn Đảo, đều có vai trò rõ ràng, mạch lạc và bổ sung cho nhau. Khi các kiến nghị này được thực hiện, Côn Đảo sẽ trở thành điểm sáng, nơi tinh thần hòa bình, nghệ thuật và phát triển bền vững gặp nhau, vừa tạo hiệu ứng lan tỏa trong nước, vừa kết nối mạnh mẽ với mạng lưới toàn cầu, trong bối cảnh thế giới đầy biến động và bất ổn. ĐỀ CƯƠNG ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN DU LỊCH HÒA BÌNH TẠI CÔN ĐẢO
I. Tên đề án
“Công viên Nghệ thuật Hòa bình Côn Đảo – Peace Art Park Con Dao”
II. Lý do và cơ sở xây dựng đề án
Côn Đảo, với bề dày lịch sử, giá trị di sản chiến tranh và thiên nhiên đa dạng, là nơi hội tụ đầy đủ các yếu tố để trở thành điểm đến du lịch mang tính hòa bình, nghệ thuật và tái sinh. Trong bối cảnh thế giới nhiều bất ổn, nhu cầu du lịch trải nghiệm có giá trị tinh thần và giáo dục tăng cao.
Cơ sở thực tiễn: Các mô hình công viên hòa bình – nghệ thuật quốc tế như Hiroshima Peace Memorial Park (Nhật Bản), Jeju 4.3 Peace Park (Hàn Quốc), Inhotim (Brazil), Yorkshire Sculpture Park (Anh) đã chứng minh rằng kết hợp ký ức lịch sử – nghệ thuật – thiên nhiên tạo sức hút lớn, doanh thu bền vững, đồng thời nâng tầm văn hóa quốc gia.
Tính cấp thiết: Du lịch Côn Đảo hiện chủ yếu nghỉ dưỡng biển – đảo. Loại hình du lịch hòa bình bổ sung sản phẩm đột phá, thu hút khách quốc tế, trí thức, học sinh – sinh viên, và các đoàn ngoại giao.
Phù hợp thời điểm: Việt Nam thực hiện Nghị quyết 57 về đổi mới sáng tạo và Nghị quyết 68 về thúc đẩy kinh tế tư nhân. Đề án này tận dụng cơ hội sáng tạo, kêu gọi vốn tư nhân, đồng thời quảng bá hình ảnh Việt Nam là quốc gia hòa bình, sáng tạo và có trách nhiệm với môi trường.
Cơ sở khoa học: Nghiên cứu về tâm lý du lịch, văn hóa ký ức, nghệ thuật trải nghiệm, và mô hình công viên hòa bình quốc tế cho thấy rằng các không gian giáo dục – nghệ thuật ngoài trời tăng trải nghiệm du lịch, thu hút khách quốc tế, đồng thời tạo tác động xã hội lâu dài.
Cơ sở pháp lý:
Luật Du lịch, Luật Di sản Văn hóa, Luật Bảo vệ môi trường.
Quy chế đặc khu Côn Đảo và cơ chế thí điểm về đón tiếp khách quốc tế, lưu trú đặc thù, tổ chức sự kiện nghệ thuật.
Nghị quyết 57/68 về đổi mới sáng tạo và thúc đẩy kinh tế tư nhân.
III. Mục tiêu đề án
Mục tiêu chung: Xây dựng Côn Đảo trở thành điểm đến quốc tế về du lịch hòa bình và nghệ thuật, kết hợp bảo tồn thiên nhiên, ký ức lịch sử và sáng tạo văn hóa.
Mục tiêu cụ thể:
Thu hút 500.000 – 1 triệu lượt khách/năm trong vòng 10–15 năm.
Xây dựng cơ sở vật chất và hệ sinh thái dịch vụ đồng bộ: bảo tàng, triển lãm ngoài trời, nhà trưng bày, trung tâm nghệ thuật, lưu trú, ẩm thực, workshop, hội nghị.
Thiết lập thông điệp hòa bình, tái sinh và kết nối quốc tế.
Huy động nguồn lực tài chính bền vững: ngân sách nhà nước, quỹ quốc tế, CSR doanh nghiệp, đóng góp cộng đồng.
IV. Đối tượng thụ hưởng
Khách du lịch: quốc tế, nội địa, học sinh – sinh viên, trí thức, các đoàn ngoại giao.
Cộng đồng địa phương: tạo việc làm, phát triển dịch vụ, tham gia quản lý và bảo vệ thiên nhiên.
Doanh nghiệp tư nhân: khai thác dịch vụ, tài trợ nghệ thuật, hợp tác phát triển hạ tầng.
Quốc tế: mạng lưới bảo tàng hòa bình, nghệ sĩ, nhà ngoại giao, tổ chức văn hóa – giáo dục.
V. Khái niệm du lịch hòa bình
Du lịch hòa bình là loại hình kết hợp tưởng niệm, giáo dục, trải nghiệm nghệ thuật và bảo tồn thiên nhiên, nhằm chuyển hóa ký ức lịch sử thành giá trị giáo dục, tinh thần và sáng tạo.
Đặc tính: giá trị nhân văn, tương tác đa chiều, liên đới với du lịch văn hóa và sinh thái.
Nguyên lý cấu thành: hòa bình – nghệ thuật – tái sinh.
Tương thích pháp lý: luật Du lịch, Di sản văn hóa, Bảo vệ môi trường, cơ chế đặc khu.
Vai trò các bên: nhà nước (định hướng, quản lý), doanh nghiệp (đầu tư, vận hành), nghệ sĩ – cộng đồng (sáng tạo, quản lý), quốc tế (liên kết, hợp tác).
VI. Quy mô và cơ sở vật chất
Diện tích: 100–150 ha (khu bảo tàng, triển lãm ngoài trời, sinh thái, lưu trú, ẩm thực).
Cơ sở vật chất: bảo tàng hòa bình, khu nghệ thuật ngoài trời, nhà triển lãm tạm thời, trung tâm hội nghị và workshop, khu thiền – trải nghiệm thiên nhiên, quầy thông tin, trung tâm truyền thông.
Hệ sinh thái dịch vụ: nhà hàng, cửa hàng lưu niệm, khu lưu trú đặc thù, dịch vụ lễ hội và workshop.
VII. Nguồn lực tài chính
Tổng vốn đầu tư dự kiến: 300–500 triệu USD, gồm:
Ngân sách nhà nước: 30–40% cho hạ tầng cơ bản, bảo tàng, khu sinh thái.
Vốn tư nhân/Doanh nghiệp: 40–50% cho dịch vụ lưu trú, ẩm thực, sự kiện, gallery.
Tài trợ quốc tế, quỹ văn hóa – hòa bình: 10–20% cho nghệ thuật, triển lãm, lễ hội.
Đóng góp cộng đồng: 1–2% (các dự án xã hội, giáo dục).
VIII. Thời gian dự kiến
Giai đoạn 1 (1–3 năm): chuẩn bị pháp lý, quy hoạch chi tiết, thiết kế kiến trúc, huy động vốn, xây dựng hạ tầng cơ bản và khu bảo tàng.
Giai đoạn 2 (4–6 năm): triển khai nghệ thuật ngoài trời, xây dựng dịch vụ lưu trú, ẩm thực, workshop, mở cửa giai đoạn thử nghiệm.
Giai đoạn 3 (7–10 năm): hoàn thiện hệ sinh thái dịch vụ, tổ chức lễ hội quốc tế, kết nối mạng lưới bảo tàng hòa bình toàn cầu, đạt công suất tối đa khách tham quan.
IX. Giá trị đạt được
Về văn hóa – giáo dục: chuyển hóa ký ức lịch sử thành giá trị giáo dục và sáng tạo, nâng cao nhận thức về hòa bình và tái sinh.
Về kinh tế – xã hội: tạo việc làm, phát triển dịch vụ địa phương, thu hút vốn tư nhân và quốc tế, doanh thu dự kiến 20–30 triệu USD/năm.
Về môi trường – bền vững: bảo tồn thiên nhiên, kết hợp du lịch sinh thái, giáo dục cộng đồng về môi trường.
Về quốc tế – ngoại giao văn hóa: xây dựng thương hiệu hòa bình, tham gia mạng lưới công viên hòa bình toàn cầu, quảng bá Việt Nam là điểm đến sáng tạo và nhân văn.
X. Chiến lược vận hành
Ban Quản lý Công viên Hòa bình Côn Đảo: nhà nước, nghệ sĩ, doanh nghiệp, cộng đồng.
Quỹ Hòa bình Côn Đảo: huy động ngân sách nhà nước, tài trợ quốc tế, CSR doanh nghiệp, đóng góp cộng đồng.
Cơ chế thí điểm Trung ương: đón tiếp khách quốc tế, lưu trú đặc thù, tổ chức sự kiện nghệ thuật, kết nối quốc tế, hỗ trợ vốn.
Cơ chế địa phương: phối hợp với UBND TP.HCM và Ban Quản lý đặc khu Côn Đảo về quy hoạch, quản lý đất đai, dịch vụ và môi trường.
XI. Chiến lược liên kết quốc tế
Tham gia International Network of Museums for Peace, Mayors for Peace, UNESCO Creative Cities Network.
Ký kết hợp tác song phương, đa phương với Hiroshima, Jeju, Kigali, New York, Ypres.
Triển khai chương trình trao đổi nghệ sĩ, triển lãm lưu động, lễ hội quốc tế. XII. Trách nhiệm các bên liên quan
Trung ương – Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VHTTDL):
Bộ VHTTDL là cơ quan đầu mối hướng dẫn, chỉ đạo tổng thể, đảm bảo đề án phù hợp với luật pháp, chiến lược phát triển du lịch quốc gia và các nghị quyết 57, 68. Bộ có trách nhiệm:
Ban hành các cơ chế thí điểm về đón tiếp khách quốc tế, kiểm soát nội dung nghệ thuật, lưu trú đặc thù, tổ chức lễ hội quốc tế.
Hướng dẫn tiêu chuẩn kiến trúc, bảo tàng, nghệ thuật ngoài trời và hệ sinh thái dịch vụ.
Phối hợp với các Bộ ngành khác về an ninh, môi trường, giao thông, y tế, đảm bảo an toàn cho khách và cộng đồng.
Thời gian triển khai: 6–12 tháng để xây dựng hướng dẫn chi tiết, cơ chế thí điểm, ban hành văn bản chỉ đạo.
Đầu mối trực tiếp: Vụ Du lịch, Vụ Văn hóa, Văn phòng Bộ, dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng.
UBND TP.HCM:
Là cơ quan quản lý địa phương, chịu trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện triển khai trên thực tế. Cụ thể:
Ban hành quyết định phê duyệt quy hoạch chi tiết khu công viên hòa bình.
Đảm bảo quỹ đất, kết nối hạ tầng giao thông, điện, nước, viễn thông.
Huy động nguồn lực tài chính bổ sung, phối hợp doanh nghiệp và quỹ quốc tế.
Thời gian: 3–6 tháng sau khi Bộ VHTTDL ban hành hướng dẫn.
Đầu mối trực tiếp: Ban Quản lý Đặc khu Côn Đảo, Sở Du lịch TP.HCM, Sở Xây dựng, Sở Tài chính.
Ban Quản lý Đặc khu Côn Đảo:
Triển khai giám sát, quản lý hạ tầng, dịch vụ, an ninh trong khu vực công viên.
Phối hợp với nghệ sĩ, cộng đồng và doanh nghiệp trong việc quản lý nội dung nghệ thuật, tổ chức sự kiện, bảo tồn môi trường.
Báo cáo tiến độ và kết quả định kỳ cho UBND TP.HCM và Bộ VHTTDL.
Đầu mối: Trưởng Ban Quản lý Đặc khu, các phòng chuyên môn về du lịch, văn hóa, quản lý đất đai.
Doanh nghiệp và nhà đầu tư tư nhân:
Đảm nhận đầu tư dịch vụ lưu trú, ẩm thực, sự kiện, shop nghệ thuật, bảo đảm chất lượng đồng bộ, bền vững.
Hợp tác với Ban Quản lý, nghệ sĩ và cộng đồng để triển khai các chương trình trải nghiệm sáng tạo và giáo dục.
Nghệ sĩ, trí thức, cộng đồng địa phương:
Tham gia sáng tạo nghệ thuật, tổ chức workshop, lễ hội, góp phần xây dựng bản sắc và thông điệp hòa bình Côn Đảo.
Tham gia giám sát môi trường, duy trì giá trị văn hóa – thiên nhiên.
XIII. Kiến nghị với Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch
Hướng dẫn chi tiết triển khai đề án:
Xây dựng cẩm nang quy chuẩn du lịch hòa bình: gồm tiêu chuẩn bảo tàng, triển lãm, trải nghiệm ngoài trời, hạ tầng dịch vụ, quản lý khách quốc tế.
Đề xuất cơ chế thí điểm cho lưu trú đặc thù, tổ chức lễ hội nghệ thuật, kết nối quốc tế.
Ban hành hướng dẫn về cơ chế tài chính, hỗ trợ vốn, huy động tài trợ quốc tế.
Đầu mối triển khai cụ thể:
Vụ Du lịch: Chủ trì nội dung hướng dẫn về du lịch, quy mô, hệ sinh thái dịch vụ.
Vụ Văn hóa: Chủ trì tiêu chuẩn nghệ thuật, bảo tàng, triển lãm, workshop.
Văn phòng Bộ: Theo dõi tiến độ, tổng hợp báo cáo cho Bộ trưởng.
Thời gian thực hiện: 6–12 tháng kể từ khi đề xuất được Bộ trưởng phê duyệt.
Cơ chế phối hợp liên ngành:
Bộ VHTTDL chủ trì phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ GTVT để đảm bảo an ninh, đầu tư, hạ tầng, truyền thông quốc tế.
Thiết lập mạng lưới liên kết quốc tế, kết nối Côn Đảo với các công viên hòa bình và tổ chức nghệ thuật toàn cầu.
Giám sát và đánh giá:
Hàng năm, Bộ VHTTDL phối hợp UBND TP.HCM đánh giá tiến độ, hiệu quả kinh tế – văn hóa – xã hội, điều chỉnh cơ chế, quy chuẩn phù hợp.
Thường niên tổ chức hội thảo quốc tế về du lịch hòa bình, tạo sức lan tỏa và học hỏi kinh nghiệm.
#
Người gửi: TRƯƠNG NAM THUẬN Thời gian gửi: 18/10/2025
Cơ sở thực tiễn hiện nay dẫn đến nhu cầu điều chỉnh Luật Người cao tuổi và Luật Dân số
Bước sang thập niên 2020, Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số nhanh với nhiều biến đổi xã hội, kinh tế và y tế sâu sắc. Sự thay đổi này không chỉ đặt ra thách thức cho hệ thống an sinh và y tế, mà còn cho cả cấu trúc phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động. Trong bối cảnh đó, Luật Người cao tuổi (2009) và Luật Dân số (2003, sửa đổi nhiều lần), dù từng có vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu, nay đã không còn phù hợp với thực tiễn phát triển mới.
Những cơ sở thực tiễn sau đây cho thấy tính cấp thiết của việc điều chỉnh hai đạo luật này để thích ứng với bối cảnh già hóa dân số nhanh và chuyển dịch mô hình phát triển quốc gia.
1. Già hóa dân số diễn ra nhanh hơn dự kiến
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2024 Việt Nam có khoảng 13 triệu người trên 60 tuổi, chiếm gần 14% dân số, và dự kiến sẽ đạt 20% vào năm 2036, chính thức trở thành xã hội già. Như vậy, chỉ trong chưa đầy hai thập kỷ, Việt Nam sẽ đi từ “già hóa” sang “dân số già” – nhanh hơn nhiều quốc gia khác trong khu vực.
Tuy nhiên, Luật Dân số vẫn chưa có quy định cụ thể về thích ứng cơ cấu dân số trong bối cảnh già hóa, cũng không lồng ghép các biện pháp để điều chỉnh mức sinh – tuổi thọ – lực lượng lao động một cách hài hòa.
Luật Người cao tuổi, trong khi đó, mới chỉ dừng lại ở việc “chăm sóc, phụng dưỡng”, chưa có quy định nào về chính sách phát huy tiềm năng kinh tế và xã hội của người cao tuổi – nhóm dân số vẫn còn năng lực, tri thức, và mong muốn tiếp tục làm việc.
Thực tế này khiến Việt Nam rơi vào tình trạng “già trước khi giàu”: người cao tuổi tăng nhanh, nhưng hệ thống pháp luật, y tế và kinh tế chưa được chuẩn bị để hấp thụ và khai thác nguồn lực ấy.
2. Suy giảm tỷ lệ sinh và thiếu hụt lao động trẻ
Từ năm 2019 đến nay, mức sinh trung bình của Việt Nam giảm xuống còn 1,95 con/phụ nữ, dưới ngưỡng thay thế 2,1. Nhiều đô thị lớn như TP.HCM, Bình Dương, Đà Nẵng có mức sinh chỉ khoảng 1,3–1,4, tương đương Hàn Quốc và Nhật Bản – những quốc gia đang đối mặt với khủng hoảng dân số.
Luật Dân số hiện hành vẫn chịu ảnh hưởng của giai đoạn “kế hoạch hóa gia đình”, với trọng tâm là giảm sinh, hạn chế quy mô dân số. Chính sách này nay trở thành rào cản đối với phục hồi cơ cấu dân số trẻ, vì không có các cơ chế khuyến khích sinh, hỗ trợ chăm sóc trẻ, hay cân bằng giới tính ở trẻ sơ sinh.
Hệ quả là, cơ cấu dân số Việt Nam đang bị co hẹp ở tầng trẻ, trong khi tầng già mở rộng nhanh chóng, dẫn đến áp lực kép: thiếu lao động sản xuất và tăng gánh nặng an sinh.
Trong khi đó, Luật Người cao tuổi lại không mở rộng khung pháp lý cho việc kéo dài tuổi lao động, hay cơ chế khuyến khích doanh nghiệp sử dụng người cao tuổi có kỹ năng.
3. Hệ thống an sinh và y tế chưa đủ năng lực đáp ứng xã hội già hóa
Hiện nay, chỉ khoảng 33% người cao tuổi có lương hưu, và gần 70% phải dựa vào gia đình hoặc lao động tự thân để sống. Trong khi đó, nhu cầu chăm sóc y tế, đặc biệt là bệnh mãn tính, bệnh về trí nhớ, phục hồi chức năng, đang tăng mạnh.
Tuy nhiên, Luật Người cao tuổi mới chỉ dừng lại ở việc miễn giảm viện phí, cấp thẻ BHYT, mà chưa có khung pháp lý cho mô hình chăm sóc dài hạn, dịch vụ cộng đồng, hay kinh tế chăm sóc người cao tuổi (silver economy) – lĩnh vực đang trở thành ngành công nghiệp hàng tỷ USD ở nhiều nước.
Bên cạnh đó, Luật Dân số không đề cập đến việc tái cấu trúc hệ thống y tế theo độ tuổi dân số. Thiếu sự kết nối giữa hai luật dẫn đến tình trạng các chính sách chăm sóc người cao tuổi triển khai rời rạc, manh mún, không có tính hệ thống.
4. Chưa khai thác được tiềm năng kinh tế và xã hội của người cao tuổi
Người cao tuổi Việt Nam ngày nay không còn là nhóm “phụ thuộc”, mà ngày càng có trình độ, tài sản, kinh nghiệm và mong muốn cống hiến.
Tuy nhiên, khung pháp lý hiện hành lại chưa cho phép họ tham gia một cách chính thức vào các hoạt động kinh tế – xã hội, như tư vấn, giảng dạy, khởi nghiệp, hay tình nguyện cộng đồng.
Luật Người cao tuổi thiên về phúc lợi, trong khi đáng lẽ phải song hành giữa “chăm sóc” và “phát huy”.
Nếu được điều chỉnh theo hướng “kinh tế người cao tuổi” – tức là khuyến khích các mô hình dịch vụ, sản phẩm, công nghệ phục vụ nhóm dân số này – Việt Nam có thể mở ra một thị trường mới, bền vững và nhân văn, đồng thời giảm gánh nặng an sinh.
5. Thay đổi cấu trúc gia đình và vai trò xã hội
Trước đây, người cao tuổi sống cùng con cháu, được chăm sóc trong mô hình gia đình truyền thống. Nay, xu hướng đô thị hóa, di cư lao động và thu hẹp quy mô hộ gia đình khiến người cao tuổi ngày càng sống độc lập, đơn thân hoặc ở xa con cái.
Luật hiện hành chưa phản ánh được thực tế này. Các quy định về “trách nhiệm của con cháu phụng dưỡng cha mẹ” dù đúng về đạo lý, nhưng không đủ sức bảo đảm về mặt pháp lý và tổ chức thực thi trong bối cảnh xã hội hiện đại.
Vì vậy, cần bổ sung các cơ chế pháp lý mới về dịch vụ công cộng, mô hình cộng đồng hỗ trợ người cao tuổi, cũng như khuyến khích các hình thức hợp tác công – tư trong lĩnh vực này.
6. Thiếu tích hợp giữa dân số, y tế, an sinh và phát triển
Hiện nay, chính sách dân số, chính sách người cao tuổi, chính sách y tế, và chính sách lao động vẫn được ban hành riêng rẽ, theo từng bộ ngành, không có cơ chế điều phối thống nhất.
Điều này dẫn đến sự chồng chéo về nhiệm vụ, thiếu chia sẻ dữ liệu và nguồn lực, và đặc biệt là thiếu tầm nhìn tích hợp về phát triển con người suốt vòng đời.
Một xã hội già hóa cần được tiếp cận như một chuyển đổi cơ cấu phát triển, chứ không chỉ là vấn đề an sinh. Vì thế, việc điều chỉnh hai luật nói trên phải gắn với chiến lược quốc gia về dân số và già hóa đến năm 2050, trong đó con người – ở mọi độ tuổi – đều được coi là nguồn lực phát triển, không chỉ là đối tượng chăm sóc.
7. Sự thay đổi của môi trường pháp lý và chính sách toàn cầu
Các quốc gia trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore đã chuyển hướng mạnh sang chính sách “Active Aging” (già hóa năng động), tích hợp giữa y tế, việc làm, công nghệ và phúc lợi. Việt Nam, nếu không sớm điều chỉnh, sẽ tụt lại trong việc hình thành nền kinh tế người cao tuổi – một động lực phát triển mới của thế kỷ XXI.
Đồng thời, việc Việt Nam tham gia nhiều hiệp ước quốc tế về nhân quyền, phát triển bền vững (SDG 3 và SDG 8), cũng đòi hỏi cập nhật luật trong nước để bảo đảm tính tương thích và cam kết quốc tế về “sức khỏe toàn dân” và “lao động bền vững”. Cơ sở lý luận – khoa học của việc điều chỉnh Luật Người cao tuổi và Luật Dân số
Việc xem xét, điều chỉnh Luật Người cao tuổi (2009) và Luật Dân số (2003, sửa đổi) không chỉ xuất phát từ các biến động thực tiễn, mà còn có cơ sở lý luận – khoa học sâu sắc. Các cơ sở này hình thành từ ba bình diện: lý luận phát triển con người, lý luận dân số học hiện đại, và khoa học chính sách công thích ứng xã hội già hóa. Dưới đây là những nền tảng lý luận chủ yếu.
1. Lý luận phát triển con người: con người là trung tâm và động lực của phát triển
Theo quan điểm của UNDP (Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc) và các học giả phát triển bền vững, con người không chỉ là đối tượng thụ hưởng mà còn là chủ thể của phát triển.
Phát triển con người không dừng ở việc cải thiện thu nhập, mà bao gồm mở rộng năng lực sống, năng lực lựa chọn và năng lực cống hiến của từng cá nhân ở mọi độ tuổi.
Từ đó, việc xây dựng luật phải hướng đến:
Bảo đảm cơ hội phát triển liên tục của mỗi cá nhân trong suốt vòng đời, kể cả khi họ đã bước vào tuổi cao.
Tạo điều kiện cho người cao tuổi tham gia vào các hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa, qua đó vừa giảm gánh nặng an sinh, vừa nâng cao chất lượng cuộc sống.
Chuyển trọng tâm chính sách từ “chăm sóc người cao tuổi” sang “phát huy người cao tuổi”, phù hợp với xu hướng “active aging” – già hóa năng động – được WHO khuyến nghị.
Theo logic này, Luật Người cao tuổi hiện hành – vốn thiên về chăm sóc, phụng dưỡng – chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển con người toàn diện. Việc sửa đổi cần dựa trên cơ sở lý luận rằng tuổi cao không đồng nghĩa với hết khả năng đóng góp, mà là một giai đoạn phát triển khác của năng lực xã hội.
2. Lý luận dân số học hiện đại: dân số là nguồn lực chiến lược, không chỉ là đối tượng quản lý
Các lý thuyết dân số học cổ điển (Malthus, Becker, Boserup) từng xem dân số như yếu tố cần kiểm soát để tránh áp lực kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, dân số học hiện đại (từ cuối thế kỷ XX đến nay) đã chuyển trọng tâm sang “chất lượng dân số” và “cấu trúc dân số năng động”.
Theo lý thuyết chuyển tiếp dân số (demographic transition), mỗi quốc gia đi qua bốn giai đoạn:
Tỷ lệ sinh và chết đều cao;
Tỷ lệ chết giảm, dân số tăng;
Tỷ lệ sinh giảm dần;
Dân số ổn định hoặc giảm, xã hội già hóa.
Việt Nam đang ở giai đoạn thứ tư. Vì thế, chính sách dân số không thể tiếp tục theo hướng “kiểm soát sinh” mà phải chuyển sang thích ứng với già hóa và tái tạo cơ cấu dân số bền vững.
Lý luận này dẫn đến yêu cầu:
Coi dân số là yếu tố phát triển kinh tế – xã hội, văn hóa – chứ không chỉ là chỉ tiêu hành chính.
Thiết lập cơ chế cân bằng giữa các nhóm tuổi, nhằm đảm bảo tính kế thừa và năng lực tái sản xuất xã hội.
Lồng ghép yếu tố dân số – lao động – an sinh – giáo dục – y tế trong cùng một chiến lược tổng thể.
Do đó, Luật Dân số cần được điều chỉnh để phản ánh giai đoạn chuyển tiếp mới của Việt Nam: từ “kiểm soát quy mô” sang “quản trị cấu trúc và chất lượng dân số”.
3. Lý luận về xã hội già hóa và mô hình “già hóa năng động” (Active Aging)
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO, 2002), “già hóa năng động” là quá trình tối ưu hóa cơ hội về sức khỏe, tham gia và an toàn để nâng cao chất lượng cuộc sống khi con người già đi.
Lý luận này dựa trên ba trụ cột:
Sức khỏe: bảo đảm khả năng duy trì thể chất, tinh thần, trí tuệ.
Tham gia: tạo cơ hội để người cao tuổi đóng góp vào đời sống xã hội, kinh tế và chính trị.
An toàn: đảm bảo môi trường sống, hạ tầng, dịch vụ và pháp luật phù hợp.
Khi áp dụng vào khung pháp lý, điều này có nghĩa là:
Luật Người cao tuổi phải tạo điều kiện “sống khỏe, sống có ích, sống hạnh phúc”, chứ không chỉ “sống lâu”.
Luật Dân số phải phản ánh cấu trúc xã hội già hóa như một điều kiện tất yếu, từ đó chủ động tái cơ cấu chính sách lao động, y tế, giáo dục và tài chính công.
Cơ sở khoa học này cho thấy hai đạo luật phải được xem là hai nhánh của cùng một tiến trình thích ứng xã hội: từ cơ cấu dân số đến cơ cấu chính sách.
4. Lý luận kinh tế học về “dividend dân số” và “kinh tế người cao tuổi”
Theo lý thuyết dividend dân số (lợi tức dân số), một quốc gia phát triển nhanh nhất khi tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao hơn nhóm phụ thuộc (trẻ em và người già).
Tuy nhiên, khi bước vào giai đoạn già hóa, lợi tức dân số giảm dần, nếu không có chính sách mới, nền kinh tế sẽ chịu áp lực lớn về chi tiêu xã hội.
Khoa học hiện đại vì thế đưa ra khái niệm “silver economy” – nền kinh tế người cao tuổi, coi đây là giai đoạn thứ hai của lợi tức dân số, khi người cao tuổi trở thành người tiêu dùng, nhà đầu tư và người sáng tạo.
Đây là cơ sở lý luận quan trọng cho việc sửa đổi Luật Người cao tuổi theo hướng:
Chuyển người cao tuổi từ đối tượng thụ hưởng sang chủ thể của nền kinh tế mới.
Hình thành thị trường dịch vụ chăm sóc, y tế, du lịch, công nghệ và giáo dục dành cho người cao tuổi.
Tái cấu trúc hệ thống bảo hiểm, lương hưu và lao động linh hoạt để kéo dài vòng đời đóng góp của con người.
Do đó, cơ sở khoa học của việc điều chỉnh luật không chỉ nằm ở dân số học, mà còn ở kinh tế học phát triển bền vững và kinh tế học hành vi con người.
5. Lý luận chính sách công và quản trị nhà nước hiện đại
Theo lý thuyết chính sách công tích hợp (Integrated Policy Theory), mọi vấn đề xã hội phức tạp – như dân số và già hóa – phải được điều chỉnh bằng các chính sách đa ngành, có tính liên kết và phối hợp.
Việc duy trì hai đạo luật riêng biệt nhưng không có cơ chế tương tác đã dẫn đến:
Phân tán nguồn lực;
Trùng lặp chính sách;
Thiếu tầm nhìn tổng hợp về “quản trị vòng đời con người”.
Cơ sở lý luận của quản trị hiện đại vì thế yêu cầu:
Xây dựng khung pháp lý tích hợp, trong đó Luật Dân số và Luật Người cao tuổi là hai phần của một “chu trình nhân khẩu học – phát triển con người”.
Tạo hệ thống dữ liệu dân số – sức khỏe – an sinh thống nhất, phục vụ hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng.
Đưa yếu tố công nghệ số và chuyển đổi dữ liệu nhân khẩu vào nội dung luật, để thích ứng với phương thức quản trị hiện đại.
6. Cơ sở nhân học và xã hội học: tái định nghĩa vị thế của người cao tuổi trong xã hội hiện đại
Theo các lý thuyết xã hội học về “chu kỳ sống” (life course theory), xã hội hiện đại không còn phân định rạch ròi giữa “tuổi trẻ – trung niên – tuổi già”, mà coi đó là một dòng liên tục của năng lực và trải nghiệm.
Người cao tuổi không chỉ là “thế hệ đi qua”, mà là nguồn vốn xã hội (social capital) quý giá của cộng đồng.
Cơ sở này gợi mở rằng:
Luật Người cao tuổi cần bổ sung các quy định về tham gia xã hội, giáo dục suốt đời, cố vấn, và truyền thụ tri thức.
Luật Dân số cần mở rộng phạm vi từ “cấu trúc số lượng” sang “cấu trúc giá trị con người”, bao gồm các yếu tố văn hóa, tâm lý, và chất lượng sống. Phân tích tác động của Nghị quyết 57 đến Luật Người cao tuổi và Luật Dân số – Cơ sở cho sự điều chỉnh chính sách trong giai đoạn mới
Nghị quyết 57 về khuyến khích đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học – công nghệ và hoàn thiện thể chế thúc đẩy năng suất quốc gia, trên thực chất, không chỉ là nghị quyết cho lĩnh vực công nghệ, mà còn là lời hiệu triệu để đổi mới toàn bộ tư duy làm chính sách. Tinh thần cốt lõi của Nghị quyết 57 là tạo ra một hệ sinh thái phát triển mở, linh hoạt, liên kết giữa con người – tri thức – thể chế – thị trường, trong đó mọi lĩnh vực, kể cả chính sách xã hội, đều phải được tái cấu trúc để thích ứng với thời kỳ dân số già, nền kinh tế tri thức và xã hội số.
Từ góc nhìn này, Luật Người cao tuổi (2009) và Luật Dân số (2003, sửa đổi 2013) bộc lộ rõ những giới hạn cấu trúc: cả hai đều được xây dựng trong bối cảnh Việt Nam còn ở giai đoạn dân số vàng, mục tiêu chính là “kiểm soát dân số” và “bảo trợ nhóm yếu thế”. Nhưng bước sang giai đoạn già hóa dân số nhanh, hai đạo luật này không còn phù hợp với tầm nhìn phát triển con người như một nguồn lực sáng tạo, vốn là tinh thần chủ đạo của Nghị quyết 57.
1. Tác động đến Luật Người cao tuổi
Nghị quyết 57 đặt ra yêu cầu “thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội”, trong đó con người ở mọi độ tuổi đều có thể đóng góp. Điều này làm thay đổi triệt để quan niệm về người cao tuổi — từ “đối tượng cần chăm sóc” sang “chủ thể của kinh nghiệm, tri thức và giá trị xã hội”.
Tuy nhiên, Luật Người cao tuổi hiện nay chủ yếu dừng lại ở chính sách trợ cấp, ưu đãi, chăm sóc y tế, chưa coi người cao tuổi là nguồn lực sáng tạo và tham gia phát triển. Điều này khiến Việt Nam bỏ lỡ một nguồn lực tri thức khổng lồ từ hơn 13 triệu người cao tuổi, đặc biệt là nhóm có kinh nghiệm nghề nghiệp, tri thức xã hội và uy tín cộng đồng.
Tinh thần của Nghị quyết 57 gợi mở một hướng điều chỉnh mới:
Chuyển từ “phúc lợi thụ động” sang “phát triển chủ động”.
Xây dựng “kinh tế người cao tuổi” – nơi người cao tuổi có thể tiếp tục lao động, cố vấn, khởi nghiệp hoặc tham gia hoạt động xã hội có giá trị.
Ứng dụng khoa học công nghệ (AI, y tế số, mạng lưới chăm sóc tại nhà) để cá nhân hóa và chủ động hóa chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, thay vì phụ thuộc vào mô hình viện dưỡng lão truyền thống.
Như vậy, Nghị quyết 57 trở thành chất xúc tác để Luật Người cao tuổi cần được tái định nghĩa, theo hướng: không chỉ “chăm lo” mà “trao quyền” cho người cao tuổi tham gia vào chuỗi giá trị xã hội mới.
2. Tác động đến Luật Dân số
Nghị quyết 57 thúc đẩy đổi mới thể chế và mô hình phát triển nhân lực, trong khi Luật Dân số hiện vẫn nghiêng về kiểm soát số lượng sinh. Cách tiếp cận này đang lỗi nhịp với giai đoạn phát triển hiện nay, khi Việt Nam đã bước vào thời kỳ già hóa nhanh, thiếu hụt lao động trẻ, mất cân bằng nhân khẩu học.
Tinh thần đổi mới sáng tạo của Nghị quyết 57 yêu cầu:
Chính sách dân số phải chuyển từ “điều tiết quy mô” sang “phát triển chất lượng và cấu trúc dân số”, gắn với yêu cầu nâng cao năng suất lao động, năng lực sáng tạo.
Cần coi dân số là tài sản phát triển, không phải là gánh nặng ngân sách.
Khuyến khích chính sách nhân lực đổi mới sáng tạo xuyên thế hệ, trong đó người cao tuổi, người trẻ, người di cư đều là phần của chiến lược nguồn lực quốc gia.
Nói cách khác, Nghị quyết 57 làm lộ rõ khoảng trống trong Luật Dân số – một đạo luật chưa cập nhật với nền kinh tế tri thức, chưa coi con người là hệ sinh thái sáng tạo đa thế hệ. Nghị quyết 57 ra đời với tinh thần đổi mới sáng tạo toàn diện, nhằm tháo gỡ những rào cản thể chế, khuyến khích các sáng kiến, mô hình, giải pháp mới trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Khi nhìn vào lĩnh vực chăm sóc và phát triển chính sách dành cho người cao tuổi, Nghị quyết 57 mở ra một hướng tiếp cận hoàn toàn khác: thay vì chỉ “bảo trợ” người cao tuổi theo cách tiếp cận an sinh truyền thống, Nhà nước được khuyến khích chuyển sang “hỗ trợ sáng tạo” – tức là khuyến khích các mô hình kinh tế, công nghệ và xã hội mới gắn với người cao tuổi, tạo ra một “nền kinh tế người cao tuổi” năng động, chủ động và có đóng góp thực sự vào phát triển.
Luật Người cao tuổi 39/2009/QH12 được ban hành trong bối cảnh Việt Nam còn đặt trọng tâm vào chính sách bảo trợ, phúc lợi xã hội. Tinh thần của luật khi đó là đảm bảo quyền được chăm sóc, tôn trọng, phụng dưỡng của người cao tuổi, nhưng chưa nhìn thấy vai trò của họ như một lực lượng xã hội có năng lực sáng tạo, kinh nghiệm và tiềm năng kinh tế. Chính vì vậy, luật này thiên về quy định nghĩa vụ của Nhà nước, gia đình và cộng đồng trong việc chăm sóc, mà thiếu các điều khoản tạo động lực để người cao tuổi tiếp tục tham gia vào đời sống kinh tế – xã hội.
Khi Nghị quyết 57 đặt vấn đề đổi mới sáng tạo là trục trung tâm của phát triển quốc gia, thì hệ thống pháp luật liên quan đến người cao tuổi cũng cần được điều chỉnh theo tinh thần này. Cụ thể, chính sách cần mở rộng phạm vi từ “chăm sóc sức khỏe” sang “thúc đẩy sức khỏe và năng lực cống hiến”. Các mô hình doanh nghiệp xã hội, trung tâm sáng tạo, câu lạc bộ khởi nghiệp hoặc các ngành nghề gắn với tri thức, kinh nghiệm của người cao tuổi cần được khuyến khích và bảo hộ. Đây chính là cách chuyển hóa tư duy “người cao tuổi là gánh nặng” thành “người cao tuổi là nguồn lực”.
Ngoài ra, Nghị quyết 57 còn tạo ra cơ sở pháp lý để thúc đẩy các mô hình đổi mới trong chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Thay vì chỉ dừng ở các trung tâm dưỡng lão truyền thống, các mô hình kết hợp giữa công nghệ y tế, dữ liệu sức khỏe, và dịch vụ chăm sóc tại nhà có thể được thí điểm và nhân rộng. Luật Người cao tuổi hiện hành chưa tạo hành lang pháp lý cho những sáng kiến như vậy, trong khi đây là nhu cầu cấp thiết của xã hội đang già hóa nhanh.
Do đó, có thể nói, Nghị quyết 57 không chỉ tác động đến lĩnh vực khoa học – công nghệ, mà còn mở rộng không gian cải cách pháp luật sang cả chính sách xã hội. Việc điều chỉnh Luật Người cao tuổi theo hướng khuyến khích sáng tạo, thúc đẩy kinh tế người cao tuổi, và phát triển dịch vụ chăm sóc thông minh, nhân văn, chính là cách để hiện thực hóa tinh thần của Nghị quyết này trong đời sống thực tế. Nó không chỉ giúp người cao tuổi được sống khỏe, sống lâu, mà quan trọng hơn, là được sống có giá trị – được tôn trọng như một chủ thể sáng tạo trong xã hội đổi mới.
3. Yêu cầu điều chỉnh luật theo tinh thần Nghị quyết 57
Từ những tác động nêu trên, việc sửa đổi cả hai đạo luật cần dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản của Nghị quyết 57:
Tư duy hệ thống – liên kết chính sách: Luật Người cao tuổi và Luật Dân số phải được kết nối như hai nhánh của cùng một chiến lược phát triển con người toàn vòng đời, không tách biệt giữa “trẻ” và “già”.
Đổi mới sáng tạo làm nền tảng: Xây dựng các chương trình y tế – giáo dục – việc làm gắn với công nghệ, dữ liệu dân số, mô hình chăm sóc thông minh.
Thúc đẩy mô hình kinh tế – xã hội đa thế hệ: Chuyển chính sách xã hội từ hướng bao cấp sang hướng khuyến khích tham gia, kết nối, đồng sáng tạo.
Tóm lại, Nghị quyết 57 không chỉ là một nghị quyết về khoa học – công nghệ, mà còn là nền tảng lý luận để tái cấu trúc toàn bộ hệ thống chính sách xã hội, trong đó Luật Người cao tuổi và Luật Dân số là hai trụ cột cần được điều chỉnh sớm nhất. Sự điều chỉnh này sẽ mở ra một tầm nhìn mới: Việt Nam không chỉ ứng phó với già hóa dân số, mà còn biến già hóa thành cơ hội cho sáng tạo, kinh tế tri thức và phát triển nhân văn bền vững. 1. Một câu mở: vì sao cần nhìn lại Luật 39/2009?
Luật Người cao tuổi (39/2009/QH12) đặt nền tảng pháp lý đầu tiên cho quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội đối với người cao tuổi (NCT) ở Việt Nam — tuy nhiên, từ khi ban hành (2009) tới nay bối cảnh già hóa dân số, mô hình chăm sóc, nhu cầu dịch vụ và năng lực hệ thống đã thay đổi mạnh. Vì vậy, nhiều quy định của Luật đã lộ ra bất cập khi chuyển từ nguyên tắc sang thực thi; cần phân tích cụ thể để thấy ảnh hưởng tới kinh tế NCT và chiến lược y tế dân số già. (Trích Luật — nội dung cơ bản).
2. Những nhược điểm chính của Luật 39/2009 trong thực tiễn
A. Khung quyền lợi rộng nhưng thiếu cơ chế tài chính bền vững
Luật quy định quyền được chăm sóc sức khỏe, an sinh, bảo hiểm y tế... nhưng phần lớn việc thực hiện vẫn dựa vào nguồn hỗ trợ chung của ngân sách, quỹ xã hội - từ thiện và đóng góp; Luật không thiết kế cơ chế tài chính ràng buộc, bắt buộc hay các nguồn tài trợ dài hạn cho dịch vụ chăm sóc dài hạn (long-term care). Kết quả: nhiều chính sách không được đảm bảo thực chất ở quy mô địa phương. (Văn bản Luật quy định quỹ, nguồn nhưng không chi tiết về cơ chế bền vững).
B. Phân công, phân cấp trách nhiệm chưa đủ cụ thể — gây chồng chéo và “rời rạc” trong thực thi
Luật giao trách nhiệm cho gia đình, Mặt trận, cơ quan nhà nước, nhưng thiếu tiêu chí đo lường trách nhiệm hành chính và cơ chế phối hợp liên ngành (y tế – lao động – tài chính – địa phương). Trong thực tế điều này dẫn tới tình trạng một nơi thì có chương trình, nơi khác thì không, và khó để huy động nguồn lực có trọng tâm. Nhiều bài phân tích chuyên môn đã nêu cần sửa đổi để rõ nghĩa vụ quản lý, trách nhiệm ngân sách.
C. Chưa bắt kịp thực tế “dịch vụ chăm sóc” — thiếu quy chuẩn nghề nghiệp, đào tạo và tiêu chuẩn cơ sở
Luật có điều khoản về cơ sở chăm sóc NCT và uỷ nhiệm dịch vụ, nhưng không quy định đủ chi tiết về chuẩn nghề, tiêu chuẩn cơ sở, chương trình đào tạo chuyên ngành lão khoa và nghiệp vụ chăm sóc tại gia — trong khi nhu cầu dịch vụ chuyên môn ngày càng tăng. Hệ quả: thị trường dịch vụ phát triển manh mún, chất lượng chưa đồng đều, và nhân lực chuyên môn thiếu trầm trọng. Nhiều báo/tin chuyên ngành phản ánh thực trạng thiếu nhân lực chăm sóc NCT.
D. Chưa điều chỉnh theo tốc độ già hóa nhanh và thay đổi tuổi nghỉ hưu, lao động cao tuổi
Luật xác định NCT từ 60 tuổi trở lên, nhưng khung chính sách nghề nghiệp, khuyến khích lao động cao tuổi, hỗ trợ tiếp tục tham gia thị trường lao động chưa đầy đủ — gây lúng túng trong việc tận dụng “kinh nghiệm lao động” của NCT và phát triển nền kinh tế dựa trên lực lượng già hóa tích cực. Các nghiên cứu và đề xuất hoàn thiện pháp luật lao động cho người già được nêu trong chuyên ngành.
E. Thiếu dữ liệu, thống kê và cơ chế giám sát hiệu quả
Luật đặt trách nhiệm báo cáo, điều phối, nhưng hệ thống dữ liệu quốc gia về NCT, hồ sơ sức khỏe cá nhân, chỉ số chất lượng dịch vụ chăm sóc NCT chưa được triển khai toàn diện; điều này khiến việc hoạch định chính sách và giám sát kết quả gặp khó. Các sáng kiến cộng đồng và dữ liệu dự án (World Bank, UNFPA) cho thấy vai trò dữ liệu là then chốt.
3. Ảnh hưởng của những nhược điểm đó lên nền kinh tế người cao tuổi và chiến lược chăm sóc sức khỏe
A. Lờ mờ về khung chính sách khiến thị trường dịch vụ lớn nhưng manh mún
Khi pháp luật không quy chuẩn rõ ràng (chất lượng, chuẩn nghề, bảo hiểm dài hạn…), nhà đầu tư và doanh nghiệp gặp rủi ro pháp lý và vận hành; kết quả là dịch vụ tồn tại nhiều nhưng khó chuyên nghiệp hoá, giá cả cao, không bao phủ nông thôn — làm tổn hao tiềm năng “kinh tế người cao tuổi” (dịch vụ, thiết bị, bảo hiểm, du lịch dành cho NCT). Nghiên cứu mapping thị trường cho thấy thị trường tiềm năng nhưng cần chính sách thúc đẩy bài bản.
B. Thiếu nhân lực chuyên ngành làm tắc nghẽn khả năng mở rộng dịch vụ
Thiếu bác sĩ lão khoa, điều dưỡng chuyên môn, nhân viên chăm sóc tại nhà khiến chi phí cao, dịch vụ kém phân bố — ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng gia tăng việc làm trong lĩnh vực này và giảm sức mua của nhóm NCT. Tin tức thực tế cho thấy mức phí chăm sóc tại nhà đã tăng cao và khó tiếp cận cho nhiều gia đình.
C. Không có cơ chế tài chính cho chăm sóc dài hạn (LTC) khiến rủi ro tài chính tăng
Thiếu khung bảo hiểm dài hạn hoặc quỹ chăm sóc bắt buộc khiến phần lớn chi phí điều trị dài ngày, điều dưỡng phải đổ vào gia đình; điều này vừa tạo gánh nặng tài chính cho hộ gia đình, vừa làm giảm thị trường bảo hiểm và dịch vụ có thể mở rộng theo quy mô. (Luật chỉ qui định quỹ xã hội, hỗ trợ nhưng không là giải pháp tài chính hệ thống).
D. Chiến lược chăm sóc sức khỏe toàn dân bị phân mảnh so với yêu cầu đối với NCT
NCT cần mô hình y tế dự phòng, quản lý bệnh mạn tính, chăm sóc tại cộng đồng và hệ thống hồ sơ sức khỏe cá nhân — trong khi Luật 2009 chưa gắn chặt với hệ thống y tế điện tử, hồ sơ sức khỏe cộng đồng và các chiến lược liên ngành. Điều này làm giảm hiệu quả can thiệp phòng ngừa và tăng chi phí điều trị cấp cứu. Các báo cáo và NQ72 gần đây nhấn mạnh bắt buộc phải đổi mới hệ thống y tế cho phù hợp.
4. Nghị quyết 72 (Bộ Chính trị, 09/9/2025) — cơ hội và yêu cầu đối với chính sách người cao tuổi
Nghị quyết 72-NQ/TW (09/9/2025) đề ra giải pháp đột phá tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân: trọng tâm gồm phát triển y tế số, hồ sơ sức khỏe điện tử toàn dân, tăng cường cơ sở vật chất, đào tạo nhân lực y tế, đổi mới cơ chế tài chính y tế — những nội dung này trực tiếp tạo cơ sở để khắc phục một số hạn chế của Luật Người cao tuổi (ví dụ: kết nối dữ liệu NCT, phát triển y tế cơ sở, đào tạo lão khoa, cải cách tài chính y tế). Nếu triển khai nghiêm túc, NQ72 có thể bù đắp phần lớn khoảng trống mà Luật 39/2009 để lại. Mối quan hệ giữa Luật Người cao tuổi (2009) và Luật Dân số (2003, sửa đổi nhiều lần), nếu xét trên tổng thể, lẽ ra phải là hai trụ cột hỗ trợ nhau trong chiến lược phát triển con người: một bên điều chỉnh giai đoạn cuối của vòng đời (già hóa dân số), một bên điều chỉnh cấu trúc và chất lượng dân số nói chung. Tuy nhiên, trên thực tế, hai đạo luật này lại tồn tại nhiều điểm chồng chéo, bất cập và thiếu gắn kết về tầm nhìn chính sách, khiến cho chiến lược dân số – già hóa ở Việt Nam hiện nay rơi vào thế “hai đường song song không gặp nhau”.
1. Chồng chéo về phạm vi điều chỉnh nhưng thiếu liên thông trong chính sách
Luật Dân số đặt mục tiêu “duy trì mức sinh hợp lý, nâng cao chất lượng dân số, điều chỉnh cơ cấu dân số theo độ tuổi”. Trong khi đó, Luật Người cao tuổi lại tập trung vào “chăm sóc, phát huy vai trò của người cao tuổi”. Cả hai đều chạm đến nhóm dân số trên 60 tuổi, nhưng lại không có cơ chế kết nối dữ liệu, chính sách hay tổ chức thực thi.
Ví dụ, khi tỷ lệ người trên 60 tuổi tăng nhanh, Luật Dân số không có quy định cụ thể nào về trách nhiệm điều chỉnh hệ thống y tế, bảo hiểm, hay lao động cho phù hợp với xã hội già hóa. Ngược lại, Luật Người cao tuổi chỉ tiếp nhận hậu quả của quá trình già hóa – tức là “đi chăm sóc”, “hỗ trợ”, mà không có điều khoản nào gắn với việc dự báo dân số hay chuẩn bị thích ứng từ sớm.
Điều này dẫn đến hệ quả: chính sách người cao tuổi bị động, rời rạc, thiên về phúc lợi hơn là phát triển. Việt Nam đang già hóa nhanh, nhưng lại không có sự phối hợp giữa hai đạo luật để chuyển hóa thách thức này thành cơ hội cho nền kinh tế và xã hội.
2. Thiếu thống nhất trong tầm nhìn: từ kiểm soát dân số đến phát triển dân số năng động
Luật Dân số 2003 ra đời trong bối cảnh Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của tư duy “kiểm soát dân số” – tức là tập trung giảm sinh. Còn Luật Người cao tuổi 2009 lại ra đời trong tinh thần “đáp ứng hậu quả của già hóa”. Hai đạo luật vì thế mang hai tư duy thời đại khác nhau:
Một bên hướng đến giảm số lượng người sinh ra;
Một bên lại phải đối mặt với hệ quả của việc giảm sinh – là dân số già đi nhanh.
Không có một cơ chế trung gian để cân bằng, dẫn đến thiếu tầm nhìn dài hạn về cơ cấu dân số hợp lý. Thay vì chuyển sang “chính sách dân số thích ứng với già hóa” như nhiều nước (Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore), Việt Nam vẫn còn tách rời hai hướng: dân số là câu chuyện kế hoạch hóa, còn người cao tuổi là câu chuyện an sinh.
Điều này khiến cho chiến lược nhân khẩu học quốc gia không tạo ra động lực kinh tế: không có chính sách kéo dài tuổi lao động, không khuyến khích người cao tuổi tham gia vào lực lượng sản xuất, cũng chưa có định hướng “kinh tế người cao tuổi” như một ngành mới.
3. Bất cập trong hệ thống dữ liệu, tổ chức và nguồn lực
Một điểm yếu dễ thấy là hai đạo luật có hai hệ thống quản lý riêng biệt:
Luật Dân số do Bộ Y tế (Tổng cục Dân số – KHHGĐ) chủ trì;
Luật Người cao tuổi do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý, cùng với Hội Người cao tuổi Việt Nam.
Hai hệ thống này gần như không chia sẻ dữ liệu, kế hoạch hay nguồn lực.
Ví dụ: cơ sở dữ liệu dân số hiện nay không được tích hợp với dữ liệu sức khỏe, nghề nghiệp, tình trạng sống của người cao tuổi. Khi triển khai các chính sách hỗ trợ, chính quyền địa phương phải làm lại từ đầu – gây lãng phí, trùng lặp và thiếu hiệu quả.
Thậm chí, trong nhiều địa phương, kế hoạch chăm sóc người cao tuổi không nằm trong quy hoạch dân số – xã hội, mà chỉ là hoạt động của hội đoàn thể, thiếu gắn với chiến lược phát triển nhân lực hoặc y tế cộng đồng.
4. Thiếu liên kết trong mục tiêu “sức khỏe – năng suất – phúc lợi”
Luật Dân số nói đến “nâng cao chất lượng dân số” nhưng chưa làm rõ chất lượng ấy bao gồm gì với người cao tuổi: chỉ số sức khỏe? chỉ số năng lực lao động? hay chỉ số hạnh phúc?
Luật Người cao tuổi thì chỉ dừng ở việc “đảm bảo chăm sóc sức khỏe, phụng dưỡng” mà chưa gắn với mục tiêu năng suất hoặc đóng góp kinh tế – xã hội.
Vì thế, hai đạo luật này thiếu một cầu nối chính sách – ví dụ, các chương trình “già hóa khỏe mạnh”, “lao động linh hoạt tuổi cao”, hay “dịch vụ sáng tạo cho người cao tuổi” – vốn là những chính sách được nhiều quốc gia dùng để tái cấu trúc dân số.
Khi thiếu liên kết đó, Việt Nam phải chi nhiều hơn cho an sinh mà không thu lại được giá trị từ tầng lớp người cao tuổi đang ngày càng đông đảo nhưng vẫn còn năng lực.
5. Đề xuất hướng khắc phục và liên kết chính sách
Để khắc phục tình trạng trên, cần tiến hành một số định hướng:
Sửa đổi Luật Dân số theo hướng chuyển từ “kiểm soát dân số” sang “phát triển dân số năng động, thích ứng với già hóa”, bao gồm cả chiến lược kéo dài tuổi lao động và phát huy tiềm năng kinh tế của người cao tuổi.
Sửa đổi Luật Người cao tuổi để bổ sung các cơ chế liên kết dữ liệu dân số, y tế và an sinh, đồng thời khuyến khích sáng tạo, việc làm, khởi nghiệp và chăm sóc thông minh cho nhóm này.
Tích hợp hai đạo luật vào một Chiến lược Dân số và Già hóa Việt Nam đến 2050, trong đó xác định rõ các chỉ tiêu kinh tế – xã hội, y tế, giáo dục và công nghệ dành riêng cho xã hội có dân số già. THƯ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
V/v: Đề xuất điều chỉnh, bổ sung Luật Người cao tuổi và Luật Dân số theo tinh thần Nghị quyết 57 và Nghị quyết 72
Kính gửi:
Bộ Chính trị
Ban Chỉ đạo Chiến lược Trung ương
Ban Kinh tế Trung ương
Ban Dân vận Trung ương
Ủy ban Về các vấn đề Xã hội của Quốc hội
Kính thưa các đồng chí,
Trong giai đoạn chuyển mình của đất nước hiện nay, khi Việt Nam đang bước vào thời kỳ “vàng cuối cùng” của cơ cấu dân số và đồng thời đối diện với tốc độ già hóa nhanh, hệ thống chính sách xã hội, đặc biệt là Luật Người cao tuổi (2009) và Luật Dân số (2003, sửa đổi 2013), đã và đang bộc lộ những giới hạn đáng kể về tầm nhìn và tính liên kết chính sách.
Hai đạo luật này được ban hành trong bối cảnh đất nước còn đang ưu tiên kiểm soát dân số, ổn định xã hội, giảm nghèo và bảo đảm an sinh cơ bản. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay đã thay đổi căn bản: Việt Nam đã bước vào nền kinh tế tri thức, xã hội số, đòi hỏi chính sách dân số và người cao tuổi không chỉ dừng lại ở “chăm lo” hay “bảo trợ”, mà phải được thiết kế lại như các chiến lược phát triển con người và sáng tạo xã hội xuyên thế hệ.
1. Cơ sở nghị quyết – định hướng chiến lược
Nghị quyết số 57-NQ/TW về “Khuyến khích đổi mới sáng tạo, hoàn thiện thể chế thúc đẩy năng suất quốc gia” xác lập một tinh thần mới cho thời kỳ phát triển: coi con người là trung tâm của đổi mới, thể chế là động lực và khoa học – công nghệ là công cụ.
Tinh thần này yêu cầu mọi lĩnh vực, kể cả lĩnh vực xã hội, phải được tái cấu trúc theo hướng:
Liên kết giữa các thế hệ – các tầng nhân khẩu học;
Phát huy năng lực sáng tạo của từng cá nhân, bất kể tuổi tác;
Ứng dụng khoa học – công nghệ, dữ liệu dân số, y tế số để nâng cao chất lượng cuộc sống.
Nghị quyết số 72-NQ/TW về “Chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới” lại đặt trọng tâm vào việc xây dựng hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn dân liên thông, chủ động, lấy dự phòng và chăm sóc tại cộng đồng làm nền tảng.
Tinh thần này gắn trực tiếp với yêu cầu tái định hình mô hình chăm sóc người cao tuổi trong bối cảnh dân số già – khi sức khỏe, sinh kế và giá trị sống không thể tách rời nhau.
Như vậy, khi kết hợp Nghị quyết 57 và Nghị quyết 72, có thể thấy rõ yêu cầu: hai đạo luật về Người cao tuổi và Dân số phải được điều chỉnh, để từ nền tảng phúc lợi thụ động chuyển sang chiến lược phát triển chủ động.
2. Cơ sở thực tiễn – những bất cập cần điều chỉnh
Về Luật Người cao tuổi:
Luật hiện hành vẫn xem người cao tuổi chủ yếu là đối tượng bảo trợ xã hội, chưa có khung chính sách để người cao tuổi tham gia vào nền kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ, hoặc hoạt động cộng đồng như nguồn lực phát triển.
Chưa gắn kết với chính sách lao động, việc làm, khởi nghiệp và sáng tạo xã hội.
Chưa cập nhật mô hình chăm sóc sức khỏe dựa trên y tế số, dữ liệu dân cư, dịch vụ chăm sóc tại nhà – vốn là nền tảng mà Nghị quyết 72 khuyến khích.
Về Luật Dân số:
Cách tiếp cận vẫn thiên về “kiểm soát sinh sản”, chưa phản ánh bối cảnh “dân số già – thiếu hụt lao động trẻ” và yêu cầu “nâng cao chất lượng dân số sáng tạo”.
Chưa tích hợp dữ liệu dân cư với hệ thống y tế, giáo dục, thị trường lao động – khiến chính sách dân số thiếu tính điều phối tổng hợp.
Thiếu sự gắn kết với Luật Người cao tuổi trong việc xây dựng chuỗi chính sách nhân khẩu học vòng đời, từ sinh – trưởng – lao động – già hóa.
3. Đề xuất điều chỉnh và định hướng chính sách
Đối với Luật Người cao tuổi:
Bổ sung chương “Phát triển kinh tế người cao tuổi” và “Tham gia sáng tạo xã hội”, với các chính sách khuyến khích lao động linh hoạt, cố vấn, khởi nghiệp, chia sẻ tri thức.
Cập nhật mô hình chăm sóc sức khỏe thông minh, ứng dụng y tế số, dữ liệu dân cư, dịch vụ tại nhà, và bảo hiểm sức khỏe trọn vòng đời.
Thiết lập cơ chế để người cao tuổi tham gia các hội đồng tư vấn cộng đồng, dự án xã hội, trung tâm sáng tạo địa phương – như chủ thể phát triển chứ không chỉ là đối tượng thụ hưởng.
Đối với Luật Dân số:
Chuyển trọng tâm từ “kiểm soát sinh sản” sang “phát triển chất lượng và cấu trúc dân số hợp lý”, gắn với chiến lược nhân lực quốc gia.
Bổ sung các quy định về cơ sở dữ liệu dân số liên thông, kết nối y tế, giáo dục, việc làm, an sinh để hỗ trợ hoạch định chính sách hiệu quả.
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cấp chính quyền trong điều phối dân số – lao động – phúc lợi, đặc biệt ở các đô thị lớn và vùng đang già hóa nhanh.
Đối với cả hai đạo luật:
Tích hợp trong một Chiến lược phát triển con người xuyên thế hệ, làm nền tảng cho kinh tế sáng tạo và xã hội học tập.
Coi sức khỏe, năng lực sáng tạo và giá trị xã hội của con người là tài sản quốc gia, cần được đầu tư, khuyến khích và bảo vệ.
Kính thưa các đồng chí,
Việc điều chỉnh hai đạo luật này không chỉ mang ý nghĩa kỹ thuật lập pháp, mà là một bước chuyển căn bản về tư duy phát triển con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới sáng tạo – từ chính sách bao cấp sang chính sách khai phóng; từ an sinh sang đồng kiến tạo; từ hỗ trợ thụ động sang chủ động sáng tạo.
Đó cũng là cách để thực thi thực chất tinh thần của Nghị quyết 57 và Nghị quyết 72, đưa Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới: một xã hội sáng tạo, nhân văn, nơi mọi người dân – dù ở độ tuổi nào – đều được sống, cống hiến và phát triển trọn vẹn trong một hệ thống thể chế linh hoạt, tiến bộ và giàu tính nhân bản.
Trân trọng,
#
Người gửi: TRƯƠNG NAM THUẬN Thời gian gửi: 18/10/2025
Chính sách bảo trợ xã hội của trẻ em
#Thể chế, pháp luật và chính sách hỗ trợ trong KH, CN, ĐMST và CĐSQG
Người gửi: Khoàng Tư Phạ Thời gian gửi: 18/10/2025
1. Nguồn nhân lực Cán bộ cấp xã
* Về Đào tạo kỹ năng số:
- Kiến nghị: Xây dựng các chương trình đào tạo chuyên sâu, ngắn hạn và thực chiến về CĐS (sử dụng phần mềm dịch vụ công, quản lý dữ liệu, an ninh mạng cơ bản) dành riêng cho cán bộ cấp xã. Đảm bảo 100% cán bộ xã thành thạo vận hành Chính phủ số/Chính quyền số cấp cơ sở.
* Về Cơ chế đãi ngộ
- Phản ánh: Cần cơ chế khuyến khích (phụ cấp, thăng tiến) đối với cán bộ có chuyên môn làm công tác chuyển đổi số, KHCN hoặc sáng kiến xuất sắc về công nghệ, nhằm giữ chân và thu hút cán bộ trẻ, có năng lực về KHCN, CĐS làm việc lâu dài tại xã.
* Đề xuất: Xây dựng cơ chế luân chuyển chuyên gia CĐS từ cấp về tỉnh hỗ trợ trực tiếp và định kỳ tại xã để giải quyết tình trạng thiếu chuyên môn kỹ thuật ngay tại xã.
2. Nguồn nhân lực cho Kinh tế số
* Về đào tạo ứng dụng thực tiễn:
- Kiến nghị: Thay thế các khóa đào tạo lý thuyết bằng các chương trình hướng dẫn cầm tay chỉ việc về ứng dụng KHCN/CĐS vào sản xuất kinh doanh (ví dụ: truy xuất nguồn gốc, thương mại điện tử qua sàn/mạng xã hội, nông nghiệp thông minh). Nhằm thúc đẩy kinh tế số nông thôn, tăng năng suất và đầu ra sản phẩm chủ lực của xã.
* Về chính sách thu hút chuyên gia:
- Đề xuất: Cơ chế hỗ trợ (vốn mồi, đất đai) để thu hút thanh niên khởi nghiệp có kiến thức về KHCN/CĐS về làm việc tại địa phương (ví dụ: mô hình startup nông nghiệp công nghệ cao), nhằm tạo hạt nhân ĐMST ngay tại cộng đồng xã.
* Về phổ cập kỹ năng số cộng đồng:
- Phản ánh: Chương trình phổ cập kỹ năng số chưa đến được với người lớn tuổi/người yếu thế trong xã hội.
- Đề xuất: Xây dựng đội ngũ Tổ công nghệ số cộng đồng hoạt động hiệu quả hơn, có kinh phí và tài liệu đào tạo dễ hiểu
- Nhằm mục đich đảm bảo Chuyển đổi số toàn dân và thu hẹp khoảng cách số
* Kiến nghị chung về lĩnh vực này: Thể chế hóa (quy định rõ ràng trong văn bản pháp luật, chính sách) về việc tỷ lệ trích lập kinh phí từ ngân sách KHCN và CĐS cấp tỉnh phải dành cho việc đào tạo nguồn nhân lực cấp xã một cách bắt buộc. Điều này sẽ đảm bảo nguồn lực cho con người ở tuyến cuối.
#Cơ chế phát triển nguồn nhân lực cho KH, CN, ĐMST và CĐSQG
Người gửi: Nguyễn Thị Bích Hoàn Thời gian gửi: 16/10/2025
- Đề xuất:
"Quản trị theo kết quả": Kiến nghị xây dựng quy trình " "quản trị theo kết quả" (outcome-based management) trong quản lý các nhiệm vụ KHCN, giúp đơn vị cơ sở có sự linh hoạt cao hơn trong việc sử dụng kinh phí để đạt được mục tiêu đề ra.
- Quy trình "số hóa" thủ tục: Đề xuất các sáng kiến để số hóa và đơn giản hóa các thủ tục hành chính nội bộ liên quan đến KHCN, ĐMST và CĐS của cấp xã.
Tăng cường phân cấp: Kiến nghị phân cấp thẩm quyền quyết định và quản lý một số nhiệm vụ/nguồn kinh phí KHCN, ĐMST và CĐS cho cấp xã, giúp đẩy nhanh tốc độ triển khai và thích ứng với điều kiện thực tế của địa phương.
#Thủ tục hành chính và quy trình triển khai KH, CN, ĐMST và CĐSQG
Người gửi: Nguyễn Thị Bích Hoàn Thời gian gửi: 16/10/2025