L
Đinh Khánh Lê
Ngày 11/06/2025, 13:30
1. Khái niệm, phân loại và đặc điểm của kinh tế dữ liệu
Hiện nay chưa có khái niệm chính thức về “kinh tế dữ liệu” (data economy), một số nghiên cứu phân tích khái niệm về nền kinh tế dựa trên dữ liệu (data-driven economy), hoặc vai trò và tác động của dữ liệu (data) đối với phát triển kinh tế.
Uỷ ban Châu Âu cho rằng nền kinh tế dữ liệu đo lường tác động tổng thể của thị trường dữ liệu (tức là thị trường nơi dữ liệu số được trao đổi dưới dạng sản phẩm hoặc dịch vụ bắt nguồn từ dữ liệu thô) đối với toàn bộ nền kinh tế. Quá trình này bao gồm việc tạo ra, thu thập, lưu trữ, xử lý, phân phối, phân tích, xây dựng và khai thác dữ liệu được hỗ trợ bởi các công nghệ kỹ thuật số. OECD định nghĩa dữ liệu là một loại tài sản vô hình: có thể lưu trữ, không cạnh tranh (nhưng có thể bị loại trừ), và chỉ được ghi nhận một phần trong các thống kê kinh tế vĩ mô hiện tại (OECD, 2022) . Nền kinh tế dữ liệu cũng bao gồm các tác động trực tiếp, gián tiếp do thị trường dữ liệu tạo ra đối với tổng thể nền kinh tế (IDC, 2016) . Cùng cách tiếp cận về tác động của dữ liệu đối với kinh tế, nền kinh tế dữ liệu cũng được định nghĩa là tập hợp các sáng kiến, hoạt động và/hoặc các mô hình kinh doanh dựa trên việc khai thác cấu trúc cơ sở dữ liệu để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ (Jaana Sinipuro, 2019) ; hoặc kinh tế dữ liệu là tương tác phức tạp giữa dữ liệu và các hoạt động kinh tế trong các lĩnh vực với sự tham gia của các bên liên quan (cá nhân, doanh nghiệp, chính phủ, các tổ chức trung gian,…)
Tựu chung lại, có thể hiểu rằng nền kinh tế dữ liệu là nền kinh tế trong đó dữ liệu là yếu tố trọng tâm được các chủ thể sử dụng, khai thác, trao đổi để tạo ra các sáng kiến, mô hình kinh doanh hoặc giá trị gia tăng cho tăng trưởng kinh tế.
Để dữ liệu tạo ra các giá trị kinh tế, nền kinh tế dữ liệu được xem là một hệ sinh thái kỹ thuật số, trong đó dữ liệu được thu thập, tổ chức và trao đổi bởi mạng lưới các doanh nghiệp, cá nhân và tổ chức.
Cá nhân là chủ thể nắm giữ dữ liệu nền tảng để xây dựng hệ sinh thái kỹ thuật số, tạo ra dữ liệu thông qua các hoạt động và tương tác với các doanh nghiệp, và có toàn quyền kiểm soát dữ liệu cá nhân bao gồm việc sử dụng và chia sẻ dữ liệu đó. Dữ liệu cá nhân dưới dạng số hóa được coi là một nguồn lực phát triển tiềm năng trong tương lai. Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới, dữ liệu này được xem là “một loại tài sản mới”, bên cạnh các tài sản truyền thống như tài sản hữu hình, vốn tư bản, vốn nhân lực và vốn xã hội. Việc gia tăng nhanh chóng khối lượng dữ liệu cá nhân dưới dạng số đang tạo ra một “làn sóng cơ hội mới để tạo ra giá trị gia tăng trong đời sống kinh tế - xã hội” (WEF, 2011).
Doanh nghiệp sử dụng dữ liệu để thúc đẩy đổi mới, tạo ra giá trị gia tăng và nâng cao hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng tạo ra dữ liệu thông qua hoạt động và dịch vụ sản xuất kinh doanh của mình.
Chính phủ đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế dữ liệu, chịu trách nhiệm về các quy định và hoạch định chính sách liên quan đến việc sản xuất, phân phối và sử dụng dữ liệu, đảm bảo các hoạt động liên quan đến dữ liệu diễn ra có đạo đức, bảo mật và bảo vệ quyền riêng tư cho tất cả các bên tham gia. Chính phủ tạo ra môi trường thuận lợi để nền kinh tế dữ liệu phát triển, đảm bảo lợi ích từ dữ liệu có tác động bao trùm, hài hoà lợi ích của các bên liên quan .
Các tổ chức trung gian dữ liệu (Data intermdediaries): đóng vai trò là cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng dữ liệu. Các tổ chức này thực hiện thu thập, tổng hợp, phân tích và phân phối dữ liệu, giúp dữ liệu sẵn sàng cho các doanh nghiệp. Hay nói cách khác, các tổ chức trung gian là cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng dữ liệu.
Nền kinh tế dữ liệu còn có sự tham gia của các tổ chức quốc tế, tổ chức nghiên cứu như trường/viện và các tổ chức xã hội.
2. Vai trò của nền kinh tế dữ liệu
Nền kinh tế dữ liệu được xem là động lực của đổi mới sáng tạo và thúc đẩy tri thức.
Hay nói cách khác, dữ liệu đang dần trở thành nền tảng cốt lõi của tăng trưởng kinh tế . Dữ liệu có 2 chức năng chính, gồm: (i) dữ liệu là yếu tố đầu vào quan trọng của các hoạt động sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ trong nền kinh tế số; (ii) dữ liệu sẽ làm thay đổi hoàn toàn cách lưu chuyển thông tin, từ đó giảm thiểu tình trạng bất cân xứng thông tin và chi phí giao dịch, qua đó tác động đến tính minh bạch, hiệu quả, công bằng, cạnh tranh. Và do đó dữ liệu sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc cải thiện tính hiệu quả và đổi mới của nền kinh tế (IMF, 2019) .
Các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm gần đây đã khẳng định vai trò quan trọng của vốn dữ liệu đối với tăng trưởng kinh tế. Thứ nhất, vốn dữ liệu không chỉ giúp nâng cao hiệu quả của các yếu tố sản xuất truyền thống mà còn đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng thông qua các dịch vụ số và nền kinh tế số, từ đó thúc đẩy năng suất lao động (Corrado và cộng sự, 2022) . Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các quốc gia đang phát triển, nơi việc tối ưu hóa nguồn lực hiện có là yếu tố then chốt để đạt được tăng trưởng bền vững. Thứ hai, vốn dữ liệu đóng vai trò trung tâm trong quá trình tạo ra tri thức và đổi mới sáng tạo. Dữ liệu cung cấp đầu vào thiết yếu cho nghiên cứu và phát triển (R&D), giúp giảm chi phí đổi mới, như trong các trường hợp phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) hay công nghệ xanh dựa trên dữ liệu khí hậu. Dữ liệu có khả năng tạo ra sự lan tỏa tri thức, làm gia tăng hiệu quả và năng suất mà không cần phải đầu tư thêm, do đó thúc đẩy sự phát triển liên tục mà không bị hạn chế bởi năng suất biên giảm dần như các nguồn vốn truyền thống. Vốn dữ liệu không bị hao mòn mà có thể tích lũy vô hạn, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế bền vững, đặc biệt trong nền kinh tế số.
Doanh nghiệp khai tác tốt tiềm năng dữ liệu giúp tăng doanh thu, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Theo báo cáo Why Market Research Is Important, 60% công ty làm tốt việc nghiên cứu thị trường bằng dữ liệu sẽ có lợi nhuận cao hơn các công ty không thực hiện việc này . Thống kê từ Forrester research cho thấy, 54% doanh nghiệp cho rằng việc phân tích dữ liệu sẽ tác động trực tiếp tới doanh thu, 44% thậm chí còn nghĩ hành động này sẽ tạo ra một lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ (Forrester & WNS, 2022) . Tại Việt Nam, việc khai thác hiệu quả dữ liệu giúp cho nền tảng Airbnb tăng 5% tỷ lệ đặt phòng thành công . Kinh tế dữ liệu còn giúp tăng năng suất lao động. Bằng cách khai thác sức mạnh của phân tích dữ liệu, doanh nghiệp có thể tối ưu hóa hoạt động, cải thiện quy trình ra quyết định, và nâng cao hiệu suất. Điều này hứa hẹn sẽ đóng góp lớn vào thúc đẩy tăng trưởng và tính cạnh tranh của nền kinh tế.
Không chỉ đóng góp thiết thực cho tăng trưởng kinh tế, kinh tế dữ liệu còn góp phần giải quyết nhiều vấn đề của xã hội. Tại Hoa Kỳ, giai đoạn 2017-2021 việc làm trực tiếp trong ngành trung tâm dữ liệu tăng hơn 17% (so với mức tăng trưởng việc làm 2% của cả quốc gia trong cùng kỳ), tăng từ 2,9 triệu việc làm năm 2017 lên 3,5 triệu việc làm vào năm 2021. Ngành này cũng giúp tăng tổng thu nhập lao động quốc gia từ 209 tỷ USD năm 2017 lên 294 tỷ USD vào năm 2021 (tăng 40%) (PwC, 2023) . Tại Singapore, ngành công nghiệp trung tâm dữ liệu đóng góp hơn 2 tỷ USD Singapore cho nền kinh tế hàng năm, 1,6 triệu việc làm được tạo ra nhờ các dịch vụ điện toán đám mây do các trung tâm dữ liệu điện phương cung cấp. Lao động trực tiếp trong ngành công nghiệp này có năng suất động cao hơn 2,6 lần và được trả mức lương cao hơn 35% so với mức trung bình toàn quốc (AlphaBeta & Amazon Web Service, 2022) .
4. Tiềm năng phát triển nền kinh tế dữ liệu Việt Nam
Việt Nam có tiềm năng lớn phát triển kinh tế số - được xem là một trong những động lực thúc đẩy kinh tế dữ liệu.
Nền kinh tế số tạo ra nguồn dữ liệu khổng lồ, từ các giao dịch trực tuyến, lượt truy cập website, đến các thông tin người dùng trên các nền tảng mạng xã hội. Đây là dữ liệu quan trọng để phân tích và tạo ra giá trị mới trong nền kinh tế dữ liệu.Việc chuyển dịch từ kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số đã bắt đầu diễn ra mạnh mẽ từ những năm 2000. Sự phát triển của công nghệ số giúp các doanh nghiệp thu thập và phân tích nhiều dữ liệu hơn về khách hàng, sản phẩm, cũng như hoạt động vận hành, nhằm tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh. Với dân số gần 100 triệu người, Việt Nam đang được đánh giá là một trong những nền kinh tế số phát triển nhanh nhất khu vực ASEAN: năm 2024, kinh tế số Việt Nam tăng khoảng 20% đạt quy mô 25 tỷ USD, chiếm khoảng 18,3% GDP, tốc độ nhanh nhất Đông Nam Á. Với tỷ trọng trong GDP còn khá thấp, kinh tế số Việt Nam được xem là còn nhiều dư địa tăng trưởng, đặc biệt là đối với bộ phận kinh tế số nền tảng và kinh tế số ngành là hai cấu trúc kinh tế số còn đang có tỷ trọng trong GDP ở mức rất thấp so với trung bình của thế giới. Bên cạnh đó, những bước tiến đáng kể trong lĩnh vực thương mại điện tử, tài chính số, và thanh toán không dùng tiền mặt cho thấy các dấu hiệu về quy mô của nền kinh tế số đang tiếp tục tăng trưởng và dần trở thành trụ cột, động lực chính của sự phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, nền kinh tế dữ liệu Việt Nam được đánh giá là có triển vọng tăng trưởng lớn do quy mô thị trường còn nhỏ.
Trung tâm dữ liệu là nơi lưu trữ, xử lý, và quản lý dữ liệu, là nền tảng để phát triển kinh tế dữ liệu, thị trường trung tâm dữ liệu Việt Nam được định giá 654 triệu USD vào năm 2024 và dự kiến sẽ đạt 1,75 nghìn tỷ USD vào năm 2030, tăng trưởng ở tốc độ CAGR (tỷ lệ tăng trưởng kép hằng năm) là 17,93% . Một dự báo của Savills vào 5/2024 cho rằng giá trị thị trường trung tâm dữ liệu Việt Nam sẽ đạt 1,04 tỷ USD vào năm 2028, từ mức 561 triệu USD năm 2022, tương đương CAGR 10,7%.
Việt Nam cũng được xem là có lợi thế với nguồn nhân lực trẻ, khả năng tiếp thu công nghệ cao, và do đó có tác động tích cực tới tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế dữ liệu.
Hạ tầng số và hạ tầng dữ liệu được cải thiện đáng kể
Khi các động lực tăng trưởng kinh tế truyền thống có dấu hiệu suy giảm, kinh tế dữ liệu có thể mang cơ hội mở rộng và đa dạng hóa cho nền kinh tế Việt Nam
5. Những thách thức đặt ra
Kinh tế dữ liệu ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự phát triển mạnh mẽ, với sự ứng dụng rộng rãi của dữ liệu trong các lĩnh vực như thương mại điện tử, tài chính ngân hàng, y tế, giáo dục và giao thông. Tuy nhiên, nền kinh tế dữ liệu tại Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành đúng nghĩa. Mặc dù dữ liệu đã được các doanh nghiệp sử dụng nhiều, nhưng việc thu thập và khai thác dữ liệu vẫn còn rời rạc, thiếu tính hệ thống, khiến cho việc tận dụng dữ liệu để phát triển dịch vụ hoặc sinh lợi nhuận chưa đạt hiệu quả cao.
Mặc dù có sự phát triển nhanh chóng, được đánh giá có tiềm năng tỷ đô nhưng thị trường trung tâm dữ liệu Việt Nam vẫn chưa phát triển tương xứng. Doanh thu từ công nghệ và dịch vụ dữ liệu còn nhỏ so với giá trị dự kiến sẽ tạo ra trong các lĩnh vực như thương mại, sản xuất, tài chính và bảo hiểm, hành chính công và chăm sóc sức khoẻ… Thị trường trung tâm dữ liệu tại Việt Nam vẫn do các nhà cung cấp trong nước dẫn dắt như Viettel, VNPT, CMC, FPT, VNG,… mà chưa khai thác được nguồn vốn và đầu tư công nghệ từ các nhà đầu tư quốc tế với lợi thế về tài chính, công nghệ và kinh nghiệm vận hành.
Phát triển nền kinh tế dữ liệu cũng đồng thời với việc đối mặt và cần giải quyết những thách thức liên quan đến quyền riêng tư và bảo mật dữ liệu, mức độ truy cập dữ liệu, các quy định và chính sách minh bạch hoá việc thu thập, xử lý và sử dụng dữ liệu để đảm bảo tính đạo đức và trách nhiệm, trình độ phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, kỹ năng số của lực lượng lao động
6. Một số khuyến nghị
Việc giải phóng toàn bộ tiềm năng của dữ liệu do nền kinh tế số tạo ra đòi hỏi triển khai đồng thời các giải pháp như hoàn thiện cơ sở hạ tầng tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi dữ liệu, cơ chế thị trường mới, phát triển các mô hình kinh tế mới. Để khai thác tiềm năng của kinh tế dữ liệu, Việt Nam cần tập trung vào một số vấn đề:
Thúc đẩy chia sẻ và hợp tác dữ liệu. Để tối đa hóa giá trị dữ liệu, cần thiết lập môi trường khuyến khích chia sẻ và hợp tác giữa khu vực công, tư và giới nghiên cứu. Chính phủ, doanh nghiệp và người dân nên tham gia vào các sáng kiến chia sẻ dữ liệu an toàn và hợp tác với các tổ chức nghiên cứu, chính phủ và các doanh nghiệp khác để khai thác tối đa giá trị từ dữ liệu, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và gia tăng hiệu quả kinh doanh.
Xây dựng và phát triển chính sách bảo mật và quản lý dữ liệu hợp lý. Chính phủ cần đảm bảo rằng các quy định về bảo mật và quyền riêng tư của dữ liệu được thực hiện nghiêm ngặt. Các chính sách này không chỉ bảo vệ người dùng/cung cấp dữ liệu mà còn xây dựng niềm tin vào hệ thống dữ liệu quốc gia.
Xây dựng môi trường pháp lý linh hoạt và thích ứng. Việc quản trị dữ liệu trong bối cảnh chuyển đổi số nhanh chóng đòi hỏi một hệ thống pháp lý linh hoạt, cập nhật kịp thời với tiến bộ công nghệ. Chính phủ cần phát triển khung pháp lý linh hoạt nhưng dễ đoán nhằm thúc đẩy chia sẻ dữ liệu an toàn và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan.
Ban Chính sách, chiến lược Trung ương trả lời
Trân trọng cảm ơn nội dung sáng kiến, giải pháp kiến nghị và ghi nhận ý kiến của Quý cá nhân. Ngoài ra, xin phản hồi thêm thông tin để Quý bạn nắm:
1. Các vấn đề đặt ra và các giải pháp kiến nghị của Bạn thực tế đã được các cơ quan liên quan nghiên cứu và triển khai. Nghị quyết 57-NQ/TW đã xác định 5 trụ cột thể chế, hạ tầng, nhân lực, công nghệ chiến lược và dữ liệu; trong đó dữ liệu được xác định là tư liệu sản xuất mới, cần được chú trọng làm giàu, khai thác tiềm năng tối đa. Đây cũng là một trong những nền tảng để thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số cũng như phát triển kinh tế dữ liệu, kinh tế tri thức.
2. Luật Dữ liệu ban hành cuối năm 2024 (có hiệu lực từ 01/7/2025) đã có những quy định nền tảng cho thúc đẩy phát triển kinh tế dữ liệu; trong đó quy định về quyền sở hữu và quyền quản trị dữ liệu (chủ sở hữu dữ liệu và chủ quản dữ liệu), đồng thời thiết lập cơ chế phân loại dữ liệu để bảo đảm các yêu cầu về kiểm soát rủi ro, an ninh dữ liệu, bảo vệ quyền hợp pháp đối với dữ liệu của các chủ thể. Luật cũng quy định về các hoạt động liên quan đến sản phẩm và dịch vụ dữ liệu, tạo cơ sở cho hình thành và vận hành thị trường dữ liệu / sàn giao dịch dữ liệu.
3. Phát triển kinh tế dữ liệu được đặt trong bối cảnh triển khai đồng bộ các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Một mặt, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế dữ liệu, kinh tế số, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xã hội nhanh và bền vững. Một mặt, vừa bảo đảm an ninh dữ liệu, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể đối với dữ liệu. Hai khía cạnh này cần được xem xét đồng thời, hài hòa, phù hợp. Nếu không bảo đảm được an ninh dữ liệu, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể đối với dữ liệu thì không thể khuyến khích các chủ thể kết nối, chia sẻ, trao đổi, giao dịch dữ liệu, càng không thể hình thành thị trường dữ liệu, thị trường sản phẩm, dịch vụ số liên quan đến dữ liệu hiệu quả. Ngược lại, nếu không thúc đẩy phát triển kinh tế dữ liệu thì cũng không tạo được cơ sở, động lực để thực hiện bảo vệ và thực thi các quyền, lợi ích của các chủ thể đối với dữ liệu.
Xin thông tin và trân trọng cảm ơn Quý bạn. Mong bạn tiếp tục đóng góp các ý kiến, sáng kiến, kiến nghị đến các cơ quan để tổng hợp, nghiên cứu trong quá trình tổng hợp, nghiên cứu chiến lược cũng như trong thực hiện các giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số, kinh tế tri thức, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.