L
Đinh Khánh Lê
Ngày 25/05/2025, 22:24
Theo OECD (2005), “Đổi mới sáng tạo (ĐMST) là việc thực thi một sản phẩm (hàng hóa/ dịch vụ) hoặc một quy trình mới hoặc được cải tiến đáng kể, một phương pháp marketing mới, hay một biện pháp mới mang tính tổ chức trong thực tiễn hoạt động, trong tổ chức công việc hay trong quan hệ với bên ngoài”. ĐMST thường được phân loại thành 4 hình thức: (i) ĐMST sản phẩm, (ii) ĐMST quy trình hoạt động, (iii) ĐMST hệ thống quản lý, và (iv) ĐMST về các hoạt động marketing. Tại Việt Nam, Luật Khoa học và Công nghệ 2013 cho rằng “ĐMST được hiểu là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa” (khoản 16 Điều 3).
Chính sách thúc đẩy ĐMST thường bao gồm việc thực thi các giải pháp như xây dựng các trung tâm ĐMST, các khu công nghệ cao, hỗ trợ tài chính/tín dụng cho các chương trình nghiên cứu, thành lập các cơ quan hỗ trợ ĐMST, đào tạo và phát triển kỹ năng tại các trường, viện nghiên cứu, chính sách phát triển các cụm, ngành, v.v... Thúc đẩy ĐMST là yêu cầu thiết yếu trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) nhằm phát huy tiềm năng nội sinh, bao gồm ở cả cấp địa phương và vùng (Hassink, Robert và cộng sự, 2020).
Phát triển kinh tế - xã hội một quốc gia luôn phải tính đến vấn đề phát triển vùng. Vùng là một bộ phận lãnh thổ đặc thù của một quốc gia và được nhìn nhận như một công cụ quan trọng, không thể thiếu trong việc hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế. Tại Việt Nam, khái niệm vùng KT-XH (vùng tổng hợp) được chính thức đề cập trong Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 7/9/2006 của Chính phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH, theo đó, vùng KT-XH “là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, gồm một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có các hoạt động KT-XH tương đối độc lập, thực hiện sự phân công lao động xã hội của cả nước”.
Trong bối cảnh các quốc gia đang đối mặt với những thách thức đan xen như việc chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh và bao trùm hơn, tốc độ già hoá dân số nhanh chóng, tính cấp thiết xây dựng hệ thống doanh nghiệp có khả năng chống chịu và hiệu quả về chi phí,... đòi hỏi có cách tiếp cận mới trong chính sách ĐMST tích hợp yếu tố bao trùm về mặt địa lý, có tính đến liên kết vùng. Bên cạnh đó, Việt Nam đặt ra mục tiêu tăng trưởng GDP cao, từ 8% trở lên năm 2025, tạo đà cho tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn 2026-2030, các động lực tăng trưởng truyền thống cần được cải cách mạnh mẽ và thúc đẩy động lực tăng trưởng mới có tính đột phá.
Thực tiễn trên đặt ra vấn đề về nghiên cứu chính sách thúc đẩy ĐMST ở quy mô cấp vùng nhằm tận dụng thế mạnh đặc thù của vùng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vùng dựa trên tri thức và công nghệ, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương trong vùng. Tầm quan trọng của ĐMST vùng được thể hiện tại Quyết định số 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và ĐMST đến năm 2030, trong đó nêu định hướng hoạt động ĐMST trong các vùng, hình thành hệ thống ĐMST gắn các chuỗi giá trị, cụm liên kết ngành, các hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo ở các vùng, địa phương có đủ các điều kiện cần thiết về nguồn nhân lực sáng tạo, các cơ sở giáo dục đào tạo, viện nghiên cứu, các cơ sở vật chất kỹ thuật gắn với lợi thế kinh tế của vùng, địa phương.
Cách tiếp cận chính sách ĐMST vùng có thể xem xét để xây dựng chính sách ĐMST ở quy mô khu vực. Các vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) được Đảng và Nhà nước xác định là các vùng động lực làm đầu tàu lôi kéo sự phát triển của các vùng khác trên cả nước. Việc thúc đẩy hoạt động ĐMST ở cấp độ quốc gia có thể được cụ thể hóa tại các vùng KTTĐ này. Các chính sách quốc gia về ĐMST đặt ra rất nhiều mục tiêu về phát triển đổi mới công nghệ, ĐMST ở các vùng/địa phương tuy nhiên triển khai trong thực tiễn còn nhiều hạn chế, mô hình tăng trưởng của vùng còn chậm đổi mới, khoa học công nghệ và ĐMST chưa là động lực quan trọng cho phát triển. Bên cạnh đó, cần thiết phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến ĐMST vùng ở Việt Nam, các chính sách thúc đẩy ĐMST vùng, các ưu điểm và hạn chế của các chính sách để đưa ra khuyến nghị thúc đẩy ĐMST vùng ở Việt Nam trong thời gian tới.
Cho đến nay, trên thế giới đã có các nghiên cứu về nội dung ĐMST vùng, EU đã xây dựng và sử dụng bảng điểm ĐMST vùng (RIS) đánh giá hiệu quả ĐMST các vùng của EU dựa trên các chỉ số (Uỷ ban Châu Âu, 2025), OECD cũng tiến hành nghiên cứu về ĐMST tại các vùng thuộc EU, hầu hết các quốc gia Mỹ Latinh vẫn xây dựng chính sách ĐMST với cách tiếp cận theo vùng (Alatrista, Arturo., 2022). Tại Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu về thúc đẩy ĐMST tại các tỉnh/thành phố cũng như ở quy mô quốc gia, tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu về chính sách ĐMST vùng. Một số báo cáo về hoạt động ĐMST tại các vùng cụ thể ở Việt Nam chưa đưa ra được khung lý luận cơ bản về đổi mới sáng tạo vùng nói chung, các kinh nghiệm quốc tế về chính sách thúc đẩy ĐMST vùng, thực trạng ĐMST vùng và chính sách ĐMST vùng tại Việt Nam cũng chưa được phân tích tổng quát.
Chính vì vậy, cần thực hiện nghiên cứu chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo vùng, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và ứng dụng tại Việt Nam
Ban Chính sách, chiến lược Trung ương trả lời
Trân trọng cảm ơn nội dung sáng kiến, giải pháp kiến nghị và ghi nhận ý kiến của Quý cá nhân. Ngoài ra, xin phản hồi thêm như sau:
Luật Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo mới được ban hành cũng đã có quy định về hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; chính sách, biện pháp bảo đảm phát triển khoa học, công nghệ và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Việc áp dụng các quy định của Luật liên quan đến chiến lược, kế hoạch phát triển KH, CN, ĐMST; phát triển hệ thóng ĐMST, các chính sách khuyến khích hoạt động R&D; hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ khởi nghiệp ĐMST; phát triển các trung tâm ĐMST, các Quỹ phát triển KH, CN, ĐMST cũng như các chính sách ưu đãi tài chính... trong thúc đẩy hoạt động ĐMST cấp vùng (hoặc cấp địa phương, quốc gia nói chung) là hoàn toàn khả thi, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các địa phương. Nói cách khác, nhiều công cụ chính sách đề ra tại Luật không phân biệt về không gian địa lý, nhưng hoàn toàn có thể được tích hợp trong các quy hoạch, kế hoạch phát triển theo các không gian địa lý cụ thể hoặc không theo không gian địa lý (các địa phương ở cách xa nhau cũng hoàn toàn có thể hợp tác thúc đẩy, phát triển các hoạt động KH, CN, ĐMST)
Hiện nay, các cơ quan theo chức năng, nhiệm vụ đang xây dựng, trình ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật KH, CN, ĐMST. Các cấp có thẩm quyền cũng đang xem xét việc sửa đổi, bổ sung, ban hành các quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn để thúc đẩy phát triển các hệ sinh thái ĐMST.
Xin thông tin và trân trọng cảm ơn Quý bạn. Mong bạn tiếp tục đóng góp các ý kiến, sáng kiến, kiến nghị đến các cơ quan để tổng hợp, nghiên cứu trong quá trình nghiên cứu, tham mưu chiến lược cũng như trong tổ chức thực hiện, hướng dẫn thi hành các cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, hệ sinh tái đổi mới sáng tạo, tiềm lực công nghệ, ĐMST quốc gia, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhanh, bền vững.