Trang chủ
KIẾN NGHỊ CHO THÀNH ỦY TPHCM “THÁO GỠ ĐIỂM NGHẼN ...
KIẾN NGHỊ CHO THÀNH ỦY TPHCM “THÁO GỠ ĐIỂM NGHẼN VÀ GIAO QUYỀN CHO TƯ NHÂN – THÍ ĐIỂM GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TRỌNG ĐIỂM ĐÔ THỊ THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT 57”
KÍNH GỬI:

Ban Thường vụ Thành ủy TP.HCM

V/v: Kiến nghị ban hành Nghị quyết thí điểm giao quyền cho tư nhân xử lý các vấn đề trọng điểm đô thị TP.HCM

I. Bối cảnh và nhận định thực tiễn

TP.HCM đang đối mặt với bốn nhóm vấn đề trọng điểm:

Kẹt xe – tác động đến năng suất lao động, chi phí xã hội, chất lượng cuộc sống.

Ô nhiễm môi trường – không khí, nước, rác thải, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng.

Ngập lụt đô thị – ảnh hưởng đến giao thông, kinh tế và đời sống dân cư.

Tội phạm và an ninh trật tự – làm giảm cảm giác an toàn, cản trở phát triển kinh tế – xã hội.

Mặc dù TP.HCM có lực lượng tri thức, chuyên gia, và các cơ quan quản lý chuyên môn, nhưng 5 điểm nghẽn chính đang cản trở hiệu quả giải quyết các vấn đề này:

Cơ chế quản lý tập trung và quan liêu – quyết định qua nhiều cấp, thủ tục phức tạp, sáng kiến bị đình trệ.

Vai trò tư nhân hạn chế – các doanh nghiệp, startup công nghệ và chuyên gia chỉ tham gia tư vấn, không được giao quyền triển khai thực địa.

Phối hợp liên ngành yếu – sở ngành vận hành cục bộ, chưa có cơ chế tổng thể chịu trách nhiệm chung.

Động lực và cơ chế khuyến khích kém – cán bộ và chuyên gia thiếu cơ chế khuyến khích gắn với kết quả thực tế, e ngại rủi ro.

Dữ liệu, công cụ và quyền thử nghiệm hạn chế – dữ liệu phân tán, quyền thí điểm chưa rõ ràng, công nghệ chưa được ứng dụng thực tế.

Các hạn chế này là khách quan, tồn tại lâu dài, có tác động rõ rệt và đáng lưu tâm, khiến TP.HCM chưa khai thác được nguồn lực sáng tạo và công nghệ vượt trội của khu vực tư nhân, dẫn đến các giải pháp đô thị vẫn chậm, chưa đồng bộ và chi phí xã hội cao.

II. Cơ sở pháp lý

Nghị quyết 57-NQ/TW (Bộ Chính trị):

Khuyến khích nhà nước kiến tạo, hỗ trợ tư nhân, tạo điều kiện cho thử nghiệm, đổi mới sáng tạo.

Nghị quyết 68-NQ/TW (Bộ Chính trị):

Nhấn mạnh vai trò kinh tế tư nhân, tri thức và sáng tạo trong phát triển đô thị và kinh tế – xã hội.

Các luật liên quan:

Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Giao thông đường bộ: tạo khung pháp lý cho thử nghiệm, ứng dụng công nghệ, triển khai dự án thí điểm.

Tuy nhiên, các nghị quyết và luật trên chưa đi vào cấu trúc vận hành của TP.HCM, chưa hình thành cơ chế thí điểm để trao quyền, phối hợp, khuyến khích và giám sát cho tư nhân và chuyên gia.

III. Đề xuất giải pháp
1. Ban hành Nghị quyết thí điểm của Thành ủy

Mục tiêu: triệt để giao quyền cho tư nhân và chuyên gia, cơ quan nhà nước chỉ hỗ trợ theo yêu cầu.

Trưởng ban: đồng chí Bí thư Thành ủy, chịu trách nhiệm tổng thể.

Ban hỗ trợ liên sở ngành: Giám đốc các sở chủ chốt, Thường trực UBND, hỗ trợ thủ tục, dữ liệu, hạ tầng.

2. Nguyên tắc và tiêu chí thí điểm

Nguyên tắc:

Tư nhân tự chủ nghiên cứu và triển khai giải pháp; nhà nước hỗ trợ, giám sát.

Thí điểm trên diện nhỏ, có đánh giá hiệu quả trước khi nhân rộng.

Quyết định liên ngành nhanh, minh bạch, giảm thủ tục quan liêu.

Tiêu chí đánh giá:

Tác động thực tế đến vấn đề đô thị.

Khả năng nhân rộng và bền vững.

Chi phí – lợi ích và hiệu quả xã hội.

3. Quy trình triển khai thí điểm

Giai đoạn 1 (0–6 tháng):

Công bố cuộc thi ý tưởng giải quyết bốn nhóm vấn đề trọng điểm.

Chuẩn hóa dữ liệu, hạ tầng thí điểm, cơ chế giám sát.

Giai đoạn 2 (6–12 tháng):

Chọn nhóm thắng cuộc, triển khai thí điểm thực địa.

Cán bộ liên sở ngành hỗ trợ, tháo gỡ vướng mắc tức thời.

Giai đoạn 3 (12–18 tháng):

Nhân rộng giải pháp thành công trên toàn TP.

Thiết lập cơ chế vận hành dài hạn, chuyển từ thí điểm sang cơ chế chính thức.

4. Động lực và cơ chế bảo vệ

Thiết lập khen thưởng, hợp đồng triển khai dự án, quyền khai thác thương mại giải pháp cho tư nhân.

Bảo vệ trách nhiệm pháp lý cho cán bộ, chuyên gia trong phạm vi thí điểm được phê duyệt.


Việc ban hành Nghị quyết thí điểm theo cơ chế giao quyền triệt để cho tư nhân sẽ:

Giải quyết nhanh các vấn đề đô thị trọng điểm, giảm nghẽn quản lý;

Tận dụng tri thức và công nghệ vượt trội của khu vực tư nhân;

Thay đổi triệt để cách làm, từ “quản lý cứng nhắc” sang hỗ trợ theo yêu cầu và thí điểm sáng tạo.

Kính đề nghị Thành ủy TP.HCM xem xét, phê duyệt và chỉ đạo khẩn trương ban hành Nghị quyết thí điểm nêu trên, để TP.HCM trở thành điển hình về quản trị đô thị đổi mới sáng tạo, phối hợp công – tư hiệu quả và xử lý các vấn đề phức tạp. I. Hạn chế và tính cục bộ của các sở ngànhTính cục bộ trong phạm vi quản lýMỗi sở ngành tại TP.HCM hiện nay vận hành theo trách nhiệm hẹp, phạm vi quản lý rõ ràng:Sở Giao thông quản lý đường bộ, cầu, giao thông công cộng.Sở Xây dựng quản lý hạ tầng, quy hoạch xây dựng, cấp phép xây dựng.Sở Tài nguyên – Môi trường quản lý chất lượng môi trường, rác thải, nước, đất đai.Công an TP quản lý an ninh trật tự.Hậu quả: Khi vấn đề đô thị liên ngành (ví dụ: ngập lụt liên quan đến giao thông, thoát nước, quy hoạch đất đai), không sở nào chịu trách nhiệm tổng thể, giải pháp bị cắt rời, thiếu đồng bộ.Tập trung vào thủ tục hơn là kết quảNhiều sở ngành còn ưu tiên quy trình, hồ sơ, báo cáo hành chính hơn là thử nghiệm và triển khai giải pháp sáng tạo.Ví dụ: startup muốn thử nghiệm hệ thống dự báo ùn tắc theo AI phải xin phép nhiều cấp, nộp báo cáo liên sở, dẫn đến giải pháp khoa học chưa thể triển khai thực tế.Phối hợp liên ngành còn hình thứcCó các ban liên sở, hội đồng thẩm định liên ngành, nhưng chưa thực sự chịu trách nhiệm triển khai, không có quyền quyết định giải pháp liên ngành.Khi gặp xung đột lợi ích hoặc kỹ thuật, không ai chịu giải quyết triệt để, dẫn đến dự án đình trệ hoặc phải điều chỉnh nhiều lần.II. Năng lực hiện nay của các sở ngành với đổi mới sáng tạoƯu điểmSở ngành có kiến thức chuyên môn sâu, kinh nghiệm quản lý hành chính, hiểu rõ cơ chế nhà nước, pháp luật, quy trình đầu tư.Có khả năng kiểm soát rủi ro pháp lý và an ninh trật tự, đảm bảo các dự án triển khai đúng quy định.Hạn chế trong đổi mới sáng tạoThiếu cơ chế linh hoạt để thử nghiệm giải pháp mới: mọi sáng kiến đều phải tuân thủ quy trình cứng nhắc.Chậm tiếp cận công nghệ mới: các giải pháp AI, IoT, dữ liệu lớn, blockchain… chưa được tích hợp vào quy trình vận hành.Động lực đổi mới hạn chế: KPI và cơ chế đánh giá tập trung vào hồ sơ, báo cáo, số liệu hành chính, không gắn với hiệu quả thực tế, tác động xã hội, tính bền vững.III. Giải pháp và kinh nghiệm của kinh tế tư nhân đã vượt tầm sở ngànhĐặc điểm của tư nhân và startupNhanh nhạy, linh hoạt, thử nghiệm liên tục: các doanh nghiệp công nghệ, startup có khả năng phát triển và thử nghiệm giải pháp mới chỉ trong vài tuần – vài tháng.Ứng dụng công nghệ cao: AI dự báo giao thông, cảm biến IoT đo môi trường, hệ thống giám sát trực tuyến an ninh…Sáng tạo theo nhu cầu thực tế: tư nhân trực tiếp khảo sát, đo đạc và phân tích dữ liệu để đưa ra giải pháp có tác động ngay.Vượt tầm năng lực hiện tại của sở ngànhThời gian triển khai nhanh hơn: ví dụ một startup có thể lắp đặt cảm biến giao thông trong 2–3 nút giao thông, thử nghiệm dự báo ùn tắc trong vài tuần, trong khi sở ngành cần thủ tục nhiều tháng để phê duyệt dự án.Tích hợp dữ liệu đa nguồn: các giải pháp tư nhân có thể kết nối dữ liệu giao thông, môi trường, hạ tầng đô thị theo thời gian thực, điều mà sở ngành hiện nay chưa làm được do dữ liệu phân tán và ràng buộc pháp lý.Khả năng nhân rộng và tối ưu chi phí: tư nhân sẵn sàng thử nghiệm nhiều mô hình, tối ưu giải pháp dựa trên phản hồi nhanh, trong khi sở ngành triển khai theo quy trình cứng nhắc, ít thử nghiệm.1. Điểm nghẽn về cơ chế quản lý tập trung và quan liêuThực trạng:Quyết định về các giải pháp quan trọng đều tập trung tại UBND TP.HCM hoặc các sở ngành, theo mô hình hành chính kiểu “tập trung – duyệt vòng”.Mỗi sáng kiến phải qua nhiều cấp phê duyệt: từ phòng ban → sở → UBND → thành phố → Bộ liên quan, dẫn đến trễ hạn, mất cơ hội triển khai ngay.Cơ sở thực tiễn:Các dự án giao thông thông minh hay hạ tầng chống ngập từng được các chuyên gia đề xuất nhiều lần nhưng chậm trễ cả chục năm vì vướng cơ chế thẩm định liên ngành và thủ tục đầu tư công.Ví dụ: TP.HCM đã có dự án chống ngập theo mô hình “hệ thống bể chứa nước thông minh”, nhưng mãi đến khi ngập trở thành khủng hoảng thì dự án mới được phê duyệt thí điểm.Hệ quả:Năng lực sáng tạo của chuyên gia không được hiện thực hóa.Các giải pháp khoa học – công nghệ trở thành ý tưởng trên giấy, không tạo ra tác động xã hội thực tế.2. Điểm nghẽn về vai trò của tư nhân và thị trường tri thứcThực trạng:Tư nhân và các tổ chức khoa học – công nghệ chủ yếu bị yêu cầu tư vấn hoặc cung cấp dự án theo hợp đồng, nhưng không được trao quyền triển khai hoặc thí điểm giải pháp.Nhà nước vẫn giữ quyền quyết định cuối cùng, dẫn đến việc các giải pháp mới, sáng tạo không được thử nghiệm trên thực địa.Cơ sở thực tiễn:Doanh nghiệp công nghệ trong nước đã phát triển hệ thống dữ liệu giao thông, ứng dụng trí tuệ nhân tạo dự báo ùn tắc, nhưng không được triển khai thực tế do thiếu cơ chế giao quyền thử nghiệm tại các nút giao quan trọng.Các startup công nghệ môi trường có giải pháp giám sát ô nhiễm theo thời gian thực nhưng không được phép vận hành trực tiếp tại các khu công nghiệp và khu dân cư đông đúc.Hệ quả:Lực lượng tư nhân, tri thức có khả năng nhưng không thể hiện năng lực thực tiễn, dẫn tới sự lãng phí tài nguyên tri thức.3. Điểm nghẽn về phối hợp liên ngànhThực trạng:Các vấn đề đô thị là đa chiều, nhưng TP.HCM vận hành theo mô hình “silo” – mỗi sở ngành hoạt động độc lập, thiếu cơ chế tổng thể để giải quyết vấn đề liên ngành.Khi vấn đề chồng chéo, không ai chịu trách nhiệm tổng thể, dẫn tới xung đột giải pháp.Cơ sở thực tiễn:Ngập lụt và kẹt xe liên quan mật thiết đến hạ tầng thoát nước, quy hoạch đường, quản lý đất đai. Nhưng sở giao thông, sở xây dựng, sở tài nguyên môi trường mỗi nơi chỉ quản lý phạm vi riêng, không có ban liên ngành thực sự chịu trách nhiệm tổng thể.Nhiều sáng kiến về “đường chống ngập thông minh” hoặc “cầu vượt giảm tắc” bị đình trệ vì một sở phản đối giải pháp do không nằm trong thẩm quyền.Hệ quả:Chậm trễ trong triển khai giải pháp tổng thể.Các sáng kiến tốt về kỹ thuật hoặc dữ liệu không được nhân rộng4. Điểm nghẽn về động lực và cơ chế khuyến khíchThực trạng:Cán bộ, chuyên gia được đánh giá theo chuẩn hành chính, KPI hành chính, không gắn trực tiếp với hiệu quả thực tiễn.Sáng kiến hoặc giải pháp thử nghiệm luôn tiềm ẩn rủi ro trách nhiệm, dẫn tới tâm lý e ngại mạo hiểm.Cơ sở thực tiễn:Các chuyên gia muốn thử nghiệm giải pháp giám sát ô nhiễm nước hoặc không khí tại sông Sài Gòn – kênh rạch nội đô – phải đối mặt với thủ tục hành chính phức tạp, báo cáo liên sở, xin giấy phép vận hành thiết bị, và nguy cơ bị phạt nếu xảy ra sai sót, khiến họ không dám triển khai.Tình trạng “giải pháp tồn trên giấy” xuất hiện liên tục trong các báo cáo khoa học, đề án thành phố, báo cáo nghiên cứu mà không tạo ra hành động thực tế.Hệ quả:Tinh thần đổi mới sáng tạo bị kìm hãm.Lực lượng tri thức trở nên thụ động, dẫn tới hiệu quả quản lý đô thị thấp.5. Điểm nghẽn về dữ liệu, công cụ và quyền thử nghiệmThực trạng:Nhiều chuyên gia giỏi, nhưng không có quyền truy cập đầy đủ dữ liệu đô thị, thiếu hạ tầng thử nghiệm, hoặc bị hạn chế quyền triển khai các giải pháp công nghệ thực tế.Dữ liệu phân tán, không chuẩn hóa, khó dùng để mô phỏng, dự báo hay thử nghiệm.Cơ sở thực tiễn:Hệ thống dữ liệu giao thông, môi trường, thoát nước, an ninh ở TP.HCM phân tán giữa các sở: Giao thông – Xây dựng – Tài nguyên – Công an; dữ liệu không đồng bộ, thiếu cập nhật theo thời gian thực.Một startup muốn triển khai mô hình “dự báo ngập lụt theo AI” cần dữ liệu mưa, nước sông, thoát nước đô thị… nhưng không được cấp quyền truy cập hoặc bị yêu cầu ký nhiều cam kết phức tạp, khiến giải pháp không triển khai được.Hệ quả:Tri thức và sáng kiến không thể chuyển hóa thành hành động;TP.HCM không tận dụng được đầy đủ lực lượng chuyên gia, công nghệ và dữ liệu.1. Nguyên nhân tồn tại của 5 điểm nghẽn1.1. Cơ chế quản lý tập trung và quan liêuLý do sâu xa:Bộ máy TP.HCM kế thừa mô hình hành chính kiểu tập trung từ nhiều thập kỷ, ưu tiên quy trình, kiểm soát, tránh rủi ro hơn là hiệu quả và sáng tạo.Thủ tục duyệt, cấp phép, triển khai dự án được thiết kế cho quản lý rủi ro và trách nhiệm pháp lý, không phải cho tốc độ và linh hoạt.Tại sao chưa khắc phục:Thay đổi cơ chế phân quyền yêu cầu thay đổi pháp lý, cơ cấu tổ chức, trách nhiệm của lãnh đạo.Lãnh đạo cấp cao e ngại rủi ro khi giao quyền mạnh cho tư nhân và chuyên gia, vì sai sót có thể bị truyền thông và chính quyền xử lý.1.2. Vai trò tư nhân và thị trường tri thức hạn chếLý do sâu xa:Truyền thống quản lý vẫn coi tư nhân là thực hiện hoặc hỗ trợ, không phải là đồng chủ thể trong giải quyết vấn đề công.Quy định pháp luật và các hợp đồng hiện hành chưa thiết lập cơ chế “trao quyền thử nghiệm, thí điểm và chịu trách nhiệm kết quả” cho tư nhân.Tại sao chưa khắc phục:Luật hiện hành và hướng dẫn vẫn chưa chuyển cơ chế từ “tư vấn – thực hiện theo lệnh nhà nước” sang “tư nhân tự chủ – nhà nước hỗ trợ”.Sự chuyển đổi này cần thí điểm, giám sát và đánh giá – chưa có cơ chế chính thức để áp dụng đồng loạt.1.3. Phối hợp liên ngành yếuLý do sâu xa:TP.HCM vận hành theo mô hình “sở ngành độc lập”, văn hóa hành chính quen với trách nhiệm hẹp, phạm vi sở hữu rõ ràng.Khi vấn đề liên ngành, không có cơ chế tổng thể chịu trách nhiệm chung, dẫn đến xung đột và trì trệ.Tại sao chưa khắc phục:Việc thiết lập ban liên ngành có quyền hạn thật sự cần thay đổi quy chế, phân công, và văn hóa phối hợp.Những cơ chế tổng thể hiện nay, dù có nghị quyết, vẫn mang tính “hướng dẫn” chứ không phải trao quyền thực thi liên ngành với trách nhiệm rõ ràng.1.4. Động lực và cơ chế khuyến khích kémLý do sâu xa:Bộ máy hành chính đánh giá cán bộ theo KPI hành chính, trình tự, báo cáo, không gắn với tác động thực tế tới đời sống người dân.Văn hóa e ngại rủi ro làm sáng kiến mới khó triển khai, dẫn đến tâm lý thụ động.Tại sao chưa khắc phục:Thay đổi cơ chế đánh giá đòi hỏi cả hệ thống chính sách lương, thưởng, trách nhiệm, không thể một sở hay một lãnh đạo thay đổi riêng lẻ.Nghị quyết 57 và 68 tạo khung tổng thể, nhưng chưa được chuyển hóa thành KPI, cơ chế thưởng phạt cho từng vị trí trong bộ máy TP.HCM.1.5. Dữ liệu, công cụ và quyền thử nghiệm hạn chếLý do sâu xa:Dữ liệu đô thị phân tán, nhiều cơ quan quản lý khác nhau; việc chia sẻ dữ liệu vẫn bị ràng buộc bởi luật, quy chế bảo mật và sợ trách nhiệm.Thiếu cơ chế chính thức để trao quyền thử nghiệm giải pháp công nghệ trên thực địa.Tại sao chưa khắc phục:Các nghị quyết và luật mới (57, 68, Luật KHCN, Luật Đầu tư) chỉ tạo khung tổng thể, chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện chi tiết, cơ chế vận hành tại địa phương.Việc vận hành cơ sở dữ liệu liên ngành đòi hỏi đầu tư hạ tầng, chuẩn hóa dữ liệu, quy trình quản lý rủi ro – chưa được TP.HCM triển khai đồng bộ.2. Tại sao tinh thần nghị quyết 57, 68 và các luật mới chưa đi vào cấu trúc vận hành của TP.HCMThiếu cơ chế triển khai thực chất:Nghị quyết 57, 68 đề cao tư nhân, đổi mới sáng tạo, cơ chế thí điểm, nhưng TP.HCM chưa xây dựng ban chỉ đạo, cơ chế thí điểm, cơ chế trao quyền cho tư nhân và chuyên gia để biến nghị quyết thành hành động cụ thể.Văn hóa quản trị chưa thay đổi:Bộ máy quen với mô hình “kiểm soát và duyệt cấp trên”, khó chấp nhận cơ chế tư nhân tự chủ, nhà nước hỗ trợ, thí điểm mở.Thiếu cơ chế phối hợp và trách nhiệm liên ngành:Nghị quyết mới chưa gắn với sơ đồ vận hành mới, phân quyền rõ ràng cho ban liên sở, ngành và chuyên gia, nên chưa tạo ra quy trình hành động thực tế, liên ngành.Thiếu cơ chế khuyến khích và quản trị rủi ro:Lực lượng chuyên gia, tư nhân vẫn lo trách nhiệm pháp lý và thiếu động lực vật chất – xã hội để thử nghiệm sáng kiến.Thiếu cơ chế chuyển hóa dữ liệu và tri thức thành hành động:Các luật mới chưa được triển khai kèm theo công cụ vận hành, chuẩn hóa dữ liệu, quyền thử nghiệm, khiến tri thức khoa học và công nghệ chưa đi vào thực tế.5 điểm nghẽn tồn tại không phải vì thiếu năng lực hay tri thức, mà vì cơ chế, văn hóa quản trị, phân quyền và động lực chưa thay đổi.Nghị quyết 57, 68 và các luật mới cung cấp khung pháp lý và tinh thần, nhưng chưa đi vào cấu trúc vận hành, chưa tạo ra cơ chế “trao quyền + thí điểm + hỗ trợ nhà nước” cho tư nhân và chuyên gia.Để giải quyết, TP.HCM cần thí điểm cơ chế mới, giao quyền thực thi cho tư nhân và chuyên gia, nhà nước chỉ hỗ trợ theo yêu cầu, giám sát hiệu quả và nhân rộng giải pháp thành công.I. Cơ sở thực tiễn1. Cơ chế quản lý tập trung và quan liêuThực tế:Các dự án giao thông, chống ngập, xử lý ô nhiễm và phòng chống tội phạm đều phải qua nhiều cấp phê duyệt từ sở ngành đến UBND và Thành ủy.Nhiều sáng kiến tốt như: hệ thống bể chứa nước thông minh, mô hình giao thông thông minh, giám sát ô nhiễm theo thời gian thực… bị đình trệ nhiều năm vì thủ tục quan liêu.Tác động:Giải pháp khoa học không được triển khai, mất cơ hội giảm thiểu tác động tiêu cực từ các vấn đề đô thị.Chậm trễ giải quyết kẹt xe, ngập lụt, ô nhiễm, khiến chi phí xã hội, kinh tế và môi trường tăng cao.2. Vai trò tư nhân hạn chếThực tế:Startup và doanh nghiệp công nghệ có giải pháp giao thông, môi trường, an ninh nhưng không được trao quyền triển khai thực địa, chỉ tham gia tư vấn.Ví dụ: các giải pháp trí tuệ nhân tạo dự báo ùn tắc giao thông hoặc giám sát nước thải công nghiệp vẫn tồn tại trên giấy, chưa ứng dụng rộng rãi.Tác động:Tri thức và năng lực sáng tạo bị kìm hãm, TP.HCM không khai thác được nguồn lực tư nhân, dẫn tới năng lực xử lý vấn đề đô thị thấp.3. Phối hợp liên ngành yếuThực tế:Ngập lụt và giao thông liên quan mật thiết đến hạ tầng, quy hoạch, thoát nước, môi trường. Tuy nhiên các sở: Giao thông, Xây dựng, Tài nguyên – Môi trường hoạt động độc lập, thiếu cơ chế tổng thể.Nhiều sáng kiến bị đình trệ vì sở này phản đối, sở kia thiếu trách nhiệm phối hợp.Tác động:Giải pháp không đồng bộ, xung đột kỹ thuật và chính sách.Vấn đề đô thị trở nên phức tạp, chi phí tăng và mất thời gian giải quyết.4. Động lực và cơ chế khuyến khích kémThực tế:Cán bộ, chuyên gia được đánh giá theo KPI hành chính, báo cáo, không gắn với hiệu quả thực tế.Hầu hết giải pháp sáng tạo không được khuyến khích triển khai, hoặc e ngại rủi ro pháp lý, gây tâm lý thụ động.Tác động:Sáng kiến tồn trên giấy, không triển khai thực tế.Chuyên gia, tư nhân thiếu động lực tham gia giải quyết vấn đề đô thị.5. Dữ liệu, công cụ và quyền thử nghiệm hạn chếThực tế:Dữ liệu giao thông, môi trường, thoát nước, an ninh phân tán, chuẩn hóa kém, cập nhật không đồng bộ.Quyền thử nghiệm giải pháp công nghệ chưa rõ ràng; thử nghiệm trên thực địa phải xin phép nhiều cơ quan, rủi ro cao.Tác động:Tri thức khoa học, công nghệ chưa được ứng dụng thực tế.Giải pháp đô thị thông minh bị hạn chế, năng lực giải quyết vấn đề thấp.=> Như vậy, 5 điểm nghẽn trên tồn tại khách quan, được minh chứng qua các dự án, sáng kiến, giải pháp đô thị chưa triển khai hoặc trì trệ nhiều năm, có tác động thực tế, đáng lưu tâm.II. Cơ sở pháp lýNghị quyết 57-NQ/TW (Bộ Chính trị:Cho phép nhà nước kiến tạo, hỗ trợ, tạo điều kiện cho tư nhân, tổ chức xã hội thử nghiệm, sáng tạo giải pháp.Thúc đẩy tháo gỡ vướng mắc pháp lý, giảm điểm nghẽn quản lý hành chính.Nghị quyết 68-NQ/TW (Bộ Chính trị :Nhấn mạnh vai trò kinh tế tư nhân, thị trường tri thức và sáng tạo trong phát triển đô thị và kinh tế – xã hội.Giao cơ chế thí điểm, thử nghiệm, khen thưởng minh bạch cho tư nhân.Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Giao thông đường bộ:Tạo khung pháp lý cho ứng dụng công nghệ, triển khai dự án thí điểm, thử nghiệm giải pháp sáng tạo.Tuy nhiên, chưa có hướng dẫn chi tiết về cơ chế giao quyền trực tiếp cho tư nhân và thí điểm liên ngành.=> Như vậy, các nghị quyết và luật mới có tinh thần tháo gỡ điểm nghẽn, nhưng chưa đi vào vận hành thực tế tại TP.HCM.III. Cơ sở lý luậnNguyên tắc quản trị hiện đại (Modern Governance):Hiệu quả quản trị dựa trên phân quyền, phối hợp liên ngành và trao quyền thử nghiệm cho các chủ thể ngoài nhà nước.Cơ chế tập trung quan liêu thường tạo ra nghẽn quản lý, trì trệ sáng kiến và giảm hiệu quả chính sách.Nguyên tắc phát triển đô thị bền vững:Các vấn đề đô thị phức tạp đòi hỏi giải pháp đa chiều, dựa trên tri thức khoa học và tư nhân, không thể chỉ dựa vào bộ máy nhà nước.Kinh nghiệm quốc tế điển hình:Các thành phố như Singapore, Seoul, Tokyo triển khai thí điểm giao quyền cho tư nhân trong giao thông, môi trường, an ninh, có cơ chế giám sát, dữ liệu mở và khuyến khích sáng tạo.Kết quả: Giảm ùn tắc, giảm ô nhiễm, tăng tính chủ động và sáng tạo, rút ngắn thời gian triển khai giải pháp.**=> Như vậy, lý luận quản trị đô thị hiện đại và kinh nghiệm quốc tế xác nhận rằng 5 điểm nghẽn là khách quan, tồn tại, ảnh hưởng thực tiễn và phải được tháo gỡ bằng cơ chế giao quyền – thí điểm – hỗ trợ nhà nướcĐiểm nghẽn cốt lõi là cơ chế chứ không phải năng lực tri thứcCác sở ngành TP.HCM có chuyên môn, kinh nghiệm và quyền lực hành chính, nhưng cơ chế quản lý cứng nhắc, silo hóa, phối hợp hình thức khiến họ không theo kịp tốc độ đổi mới sáng tạo.Kinh tế tư nhân và tri thức vượt tầm sở ngànhCác doanh nghiệp, tổ chức khoa học công nghệ có khả năng thử nghiệm, sáng tạo và triển khai giải pháp nhanh hơn, linh hoạt hơn, ứng dụng công nghệ mới, nhưng chưa được giao quyền thực thi thực tế.Từ thực tiễn tới kiến nghịCần xây dựng cơ chế thí điểm, trao quyền cho tư nhân và chuyên gia, trong đó sở ngành chỉ hỗ trợ theo yêu cầu và giám sát kết quả, để tận dụng tri thức và công nghệ vượt trội của khu vực tư nhân, xử lý kịp thời các vấn đề đô thị phức tạp. Tổng kết và mục tiêu của đề xuất
1. Mục tiêu tổng thể

Khơi thông các điểm nghẽn cốt lõi trong vận hành đô thị TP.HCM: kẹt xe, ô nhiễm, ngập lụt và tội phạm.

Khai thác tối đa nguồn lực tư nhân, tri thức và công nghệ, tạo cơ chế thí điểm thử nghiệm giải pháp sáng tạo.

Thay đổi triệt để cách làm của bộ máy hành chính: từ quản lý cứng nhắc sang hỗ trợ theo yêu cầu, giám sát kết quả, khuyến khích sáng tạo.

Đặt TP.HCM thành điển hình quản trị đô thị đổi mới sáng tạo, có khả năng nhân rộng mô hình ra các thành phố khác.

2. Mục tiêu cụ thể

Xây dựng cơ chế thí điểm giao quyền triệt để cho tư nhân và chuyên gia trong nghiên cứu, thử nghiệm và triển khai giải pháp đô thị.

Thiết lập tiêu chí, nguyên tắc và quy trình minh bạch cho cả tư nhân và cơ quan nhà nước tham gia, đảm bảo hiệu quả và bền vững.

Tạo môi trường thử nghiệm nhanh, đánh giá thực tiễn, nhân rộng hiệu quả, thay vì chờ đợi quy trình hành chính truyền thống.

Khuyến khích sáng tạo, ứng dụng công nghệ cao, phân tích dữ liệu đô thị và thử nghiệm các mô hình quản trị mới.

Cách thực hiện để khai phá các điểm nghẽn

Ban hành Nghị quyết thí điểm của Thành ủy

Đồng chí Bí thư Thành ủy làm Trưởng ban, chịu trách nhiệm tổng thể.

Ban hỗ trợ liên sở ngành: Giám đốc các sở chủ chốt, Thường trực UBND, chỉ hỗ trợ theo yêu cầu, tháo gỡ thủ tục, dữ liệu, hạ tầng.

Sử dụng công cụ triệt để cho tư nhân và chuyên gia

Cuộc thi sáng kiến: thu hút ý tưởng, giải pháp từ tư nhân và chuyên gia.

Cơ chế thí điểm: giao quyền triển khai giải pháp trực tiếp, nhà nước giám sát kết quả, không quản lý chi tiết.

Hạ tầng dữ liệu và thử nghiệm: cung cấp dữ liệu giao thông, môi trường, an ninh; khu vực thí điểm thực địa, hệ thống đo đạc và quan trắc.

Công cụ khuyến khích và bảo vệ: hợp đồng triển khai, quyền khai thác giải pháp, khen thưởng, bảo vệ trách nhiệm pháp lý.

Phối hợp liên ngành minh bạch

Mỗi nhóm thí điểm có cán bộ liên sở ngành trực tiếp hỗ trợ, đảm bảo giải pháp đồng bộ, tháo gỡ xung đột kỹ thuật và chính sách.

Đánh giá và nhân rộng

Giai đoạn 1: thử nghiệm trên diện nhỏ, đánh giá hiệu quả, chi phí, tác động xã hội.

Giai đoạn 2: điều chỉnh và mở rộng các giải pháp thành công.

Giai đoạn 3: triển khai chính thức trên toàn TP, hình thành cơ chế vận hành bền vững.

Kết luận

Việc thực hiện đề xuất này sẽ khai phá các điểm nghẽn tồn tại lâu nay, tạo ra môi trường đô thị thông minh, linh hoạt và sáng tạo.

TP.HCM sẽ trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo trong quản trị đô thị, tận dụng tri thức, công nghệ và năng lực tư nhân để giải quyết các vấn đề phức tạp.

Cách làm này thay đổi triệt để vai trò của nhà nước: từ quản lý chi tiết sang hỗ trợ theo yêu cầu và giám sát kết quả, đồng thời tạo cơ chế thí điểm minh bạch, hiệu quả và nhân rộng.

=> Mục tiêu cuối cùng: TP.HCM phát triển đô thị bền vững, hiệu quả, linh hoạt, với năng lực ứng phó nhanh, sáng tạo và khả năng nhân rộng mô hình quản trị tiên tiến. 1. Áp lực đổi mới và sáng tạo

TP.HCM đang đối mặt với bốn vấn đề cấp bách: kẹt xe, ô nhiễm, ngập lụt, tội phạm.

Giải pháp hiện đại đòi hỏi đổi mới sáng tạo, công nghệ cao, dữ liệu lớn, và khả năng triển khai nhanh – điều mà bộ máy công quyền hiện nay khó đáp ứng do cơ chế quan liêu, cục bộ và thủ tục kéo dài.

2. Nhu cầu bức xúc và kỳ vọng xã hội

Người dân, doanh nghiệp và nhà đầu tư mong muốn giải pháp nhanh, hiệu quả, minh bạch.

Nếu chậm trễ, TP.HCM sẽ mất cơ hội khai thác tiềm năng kinh tế, giảm năng lực cạnh tranh, tụt hậu so với các đô thị trong khu vực và quốc tế.

3. Vai trò quyết tâm chính trị

Trao quyền thực sự cho tư nhân, chuyên gia, startup là bước cần thiết để giải phóng sáng kiến và năng lực.

Chỉ có quyết tâm chính trị cao nhất, từ Bí thư Thành ủy và Ban Thường vụ, mới:

Xây dựng cơ chế thí điểm mạnh mẽ, minh bạch;

Cho phép thử nghiệm và triển khai giải pháp vượt trội;

Tháo gỡ ràng buộc hành chính, phối hợp liên ngành triệt để.

4. Hệ quả nếu không hành động

Dựa vào năng lực hiện nay của bộ máy hành chính, TP.HCM sẽ:

Giải quyết chậm, thủ tục rườm rà;

Bỏ lỡ cơ hội ứng dụng công nghệ và tri thức tư nhân;

Các vấn đề đô thị ngày càng phức tạp, chi phí xã hội tăng;

Năng lực cạnh tranh, phát triển đô thị bị tụt hậu so với các thành phố tiên tiến trong khu vực.

=> Kết luận: Nếu không có quyết tâm chính trị cao và cơ chế giao quyền mạnh mẽ, TP.HCM khó bứt phá, các vấn đề trọng điểm sẽ tiếp tục tồn tại, đô thị sẽ tụt hậu so với nhu cầu phát triển và so với chuẩn mực quốc tế.
Thành phố Hồ Chí Minh  trả lời

00:00

/

00:00

  • Tải xuống
  • Tốc độ phát
Sở Khoa học và Công nghệ đã ban hành Công văn số 4401/SKHCN-PTKHCN ngày 12 tháng 11 năm 2025 về việc phản hồi thông tin kiến nghị của ông Trương Nam Thuận (chi tiết theo Công văn đính kèm)./.
Kiến nghị cùng chủ đề
Xây dựng nhà không phép
0 lượt xem
KÍNH GỬI SỞ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TPHCM : KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT ĐỀ ÁN NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP XỬ LÝ KHOẢNG HỞ, ĐIỂM NGHẼN CỦA NGHỊ QUYẾT 57
0 lượt xem
Nâng cấp tính năng tự động trích yếu nội dung văn bản trong thao tác dự thảo văn bản đi trên Hệ thống thông tin điều hành tác nghiệp của Đảng
0 lượt xem
KÍNH GỬI UBND TPHCM VÀ SỞ NỘI VỤ : KIẾN NGHỊ TRIỂN KHAI THÍ ĐIỂM MÔ HÌNH “TRUNG TÂM ĐỒNG HÀNH – SÁNG TẠO – PHÁT TRIỂN” TẠI TP.HCM THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT 57
0 lượt xem
Kính gửi Bộ tư pháp : Kiến nghị về việc xây dựng “Khung tư duy và phương pháp làm luật từ cơ sở” – hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị
0 lượt xem