Trang chủ
VỀ VIỆC NGHIÊN CỨU, HÌNH THÀNH MỘT LOẠI HÌNH ĐỒ ...
VỀ VIỆC NGHIÊN CỨU, HÌNH THÀNH MỘT LOẠI HÌNH ĐỒ ÁN QUY HOẠCH MỚI CÓ TÍNH CHIẾN LƯỢC, LINH HOẠT VÀ TÍCH HỢP HƠN CHO PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ VIỆT NAM THEO TINH THẦN ĐỔI MỚI SÁNG TẠO CỦA NGHỊ QUYẾT 57
CƠ SỞ LÝ LUẬN, KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỔI MỚI QUY HOẠCH
Nguồn gốc tư duy quy hoạch hiện nay tại Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ mô hình quy hoạch của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa thế kỷ XX, trong đó các loại đồ án quy hoạch như quy hoạch chung, quy hoạch phân khu 1/2000 và quy hoạch chi tiết 1/500 được xây dựng dựa trên tư duy quản lý hành chính và kỹ thuật. Tư duy này chủ yếu coi quy hoạch như một công cụ phân chia không gian và kiểm soát sử dụng đất, chứ chưa thực sự coi đó là công cụ kiến tạo phát triển, dẫn dắt xã hội và hình thành các hệ sinh thái đô thị – vùng đồng bộ. Vì vậy, hệ thống quy hoạch được cấu trúc theo thứ bậc tuyến tính “quy hoạch chung – quy hoạch phân khu – quy hoạch chi tiết”, mỗi tầng chỉ là một mức độ chi tiết hóa của tầng trên. Cấu trúc này dù hợp lý về mặt kỹ thuật nhưng thiếu tính động, liên kết ngang và cơ chế phản hồi từ thực tiễn đời sống xã hội, khiến quy hoạch dễ trở nên rời rạc, cứng nhắc và không phù hợp với nhu cầu phát triển nhanh và phức tạp của đô thị hiện đại.
Mâu thuẫn lý luận cốt lõi nằm ở chỗ, quy hoạch được lập ra để dự báo và dẫn dắt phát triển, nhưng thực tế lại biến nó thành công cụ hành chính, phục vụ hợp thức hóa các thủ tục đầu tư thay vì định hướng phát triển. Trong khi lý luận phát triển đô thị hiện đại coi quy hoạch là hệ thống tổ chức đời sống con người trong không gian, tại Việt Nam, quy hoạch vẫn chủ yếu dừng lại ở việc vẽ bản đồ đất đai và xác định các chỉ tiêu kỹ thuật. Hệ thống đồ án hiện hành vận hành theo trật tự tuyến tính, đóng kín, trong khi xã hội ngày nay đòi hỏi tư duy mở, hệ thống và linh hoạt, có khả năng điều phối liên ngành và thích ứng với biến động nhanh chóng của kinh tế, xã hội, công nghệ và môi trường.
Do đó, thay đổi tư duy quy hoạch là cần thiết. Quy hoạch phải chuyển từ cách tiếp cận “quản lý – kiểm soát” sang “hỗ trợ – kiến tạo – đồng kiến tạo”, coi nó như một quá trình liên tục, tương tác và có tính thích ứng cao, chứ không còn là một bản vẽ tĩnh kéo dài 20–30 năm. Đồng thời, quy hoạch phải gắn chặt với lý luận phát triển vùng, năng lực xã hội và đổi mới sáng tạo, đúng tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW, trong đó đổi mới sáng tạo không chỉ là công nghệ mà là đổi mới toàn bộ cách làm và cách nghĩ.
Về cơ sở khoa học, quy hoạch hiện đại dựa trên quan niệm đô thị là một hệ thống phức hợp, nơi con người, không gian, kinh tế, môi trường, văn hóa và công nghệ tương tác liên tục. Một hệ thống như vậy không thể điều hành bằng các công cụ phân tầng cứng nhắc mà cần có cơ chế phản hồi, tương tác và khả năng thích nghi. Ba tầng quy hoạch hiện nay thiếu cơ chế phản hồi này, khiến mọi quyết định bị đóng khung và không thể điều chỉnh theo thời gian thực. Đồng thời, sự phát triển mạnh mẽ của GIS, trí tuệ nhân tạo, mô hình dự báo và dữ liệu lớn tạo ra khả năng xây dựng quy hoạch như một hệ thống thông minh, cập nhật liên tục. Tuy nhiên, cấu trúc đồ án hiện hành vẫn vận hành dựa trên bản vẽ giấy và chỉ tiêu cố định, trái ngược với xu hướng quốc tế, nơi quy hoạch trở thành nền tảng dữ liệu phục vụ điều phối và ra quyết định theo thời gian thực.
Ngoài ra, khoa học hành vi và xã hội học đô thị chỉ ra rằng đô thị không chỉ là không gian vật lý mà còn là mạng lưới hành vi, tương tác xã hội và kinh tế chia sẻ. Khi quy hoạch chỉ tập trung vào hình khối và đất đai mà bỏ qua động lực con người, đô thị sẽ thất bại trong việc tạo ra không gian sống thực sự chất lượng. Quy hoạch hiện đại nhấn mạnh sự tham gia của cộng đồng, năng lực sáng tạo xã hội và khả năng thích ứng văn hóa – những yếu tố vẫn còn thiếu trong mô hình đồ án hiện hành. Về khoa học chính sách và thể chế, hiệu quả của quy hoạch phụ thuộc vào khả năng phối hợp liên ngành và cơ chế tự điều chỉnh của thể chế. Ba loại đồ án hiện nay được quản lý tách biệt giữa Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và địa phương, khiến quy hoạch trở thành chuỗi thủ tục phân mảnh, không vận hành như một chính sách phát triển. Nguyên tắc khoa học thể chế hiện đại yêu cầu chuyển từ mô hình kiểm soát sang mô hình hỗ trợ và học hỏi, trong đó quy hoạch là công cụ để thử nghiệm, học tập và điều chỉnh, chứ không phải khuôn mẫu đóng kín.
Thực tiễn cho thấy hệ thống đồ án hiện hành đã bộc lộ nhiều hạn chế. Nhiều quy hoạch chung trở nên lỗi thời chỉ sau 5 năm, nhưng phải mất hàng chục năm mới được điều chỉnh. Quy hoạch phân khu 1/2000 thường chỉ tồn tại trên giấy, không gắn với nguồn lực đầu tư, trong khi quy hoạch chi tiết 1/500 lại bị “tư nhân hóa”, trở thành công cụ hợp thức hóa dự án. Hậu quả là không gian đô thị phân mảnh, đầu tư manh mún, hạ tầng không đồng bộ, đô thị không phản ánh nhu cầu thực của người dân và sự sáng tạo xã hội bị bóp nghẹt. Nhà nước buộc phải liên tục điều chỉnh ngoài quy hoạch, biểu hiện rõ ràng của việc hệ thống hiện tại không còn đủ năng lực định hướng phát triển.
Hệ thống đồ án quy hoạch hiện hành được xây dựng theo mô hình quản lý hành chính – kỹ thuật, chứ không phải mô hình phát triển sáng tạo và kiến tạo giá trị xã hội.
Điều đó dẫn đến ba căn bệnh lớn:
1.Quy hoạch nặng về hình thức – nhẹ về hành động.
2.Tư duy khép kín theo cấp bậc đồ án – không tương tác theo hệ thống mở.
3.Thiếu cơ chế chuyển hóa từ bản vẽ sang dự án, và từ dự án sang đời sống.
Những điểm yếu này khiến quy hoạch đi ngược lại tinh thần của Nghị quyết 57, vốn kêu gọi đổi mới cách làm, giải phóng nguồn lực, lấy đổi mới sáng tạo làm động lực chủ đạo, hướng tới một mô hình điều phối linh hoạt, thực tiễn và có khả năng phản ứng nhanh với biến động xã hộ
II. NHƯỢC ĐIỂM CỤ THỂ CỦA TỪNG LOẠI ĐỒ ÁN
1. Quy hoạch chung đô thị
Nhược điểm chính:
Quá tổng quát và tĩnh: chỉ nêu định hướng đến năm 2030–2050 nhưng thiếu cơ chế triển khai, không có “hệ hành động” tương ứng.
Không cập nhật theo thực tế biến động: nhiều đồ án quy hoạch chung đã lạc hậu ngay khi vừa phê duyệt do quá trình lập kéo dài 5–10 năm.
Thiếu dữ liệu và công cụ số: phần lớn dựa vào khảo sát thủ công, không tích hợp dữ liệu mở, GIS động, hoặc hệ thống dự báo liên ngành.
Tách rời khỏi động lực phát triển vùng: chưa có mô hình quy hoạch vùng tích hợp, khiến đô thị không thể gắn kết với kinh tế – xã hội – sinh thái của vùng.
So với Nghị quyết 57:
Nghị quyết 57 yêu cầu chuyển đổi phương pháp quy hoạch từ “vẽ để quản lý” sang “thiết kế để phát triển”, nghĩa là quy hoạch phải trở thành công cụ sáng tạo, thử nghiệm mô hình mới, chứ không phải tập hợp bản đồ hành chính.
Quy hoạch chung hiện hành chưa có cấu phần “đổi mới thể chế”, “hệ sinh thái sáng tạo”, “vùng thử nghiệm chính sách” – các yếu tố trung tâm của Nghị quyết 57.
2. Quy hoạch phân khu (tỷ lệ 1/2000)
Nhược điểm chính:
Cứng nhắc và chồng chéo: quy hoạch phân khu chủ yếu tái hiện ranh giới kỹ thuật, chia khu chức năng cứng, không phản ánh tính linh hoạt của thị trường và nhu cầu người dân.
Thiếu liên kết với chiến lược đầu tư: không có cơ chế xác định nguồn lực, đối tác, thời gian hay mô hình tài chính.
Phụ thuộc nặng vào quy hoạch chung lỗi thời: vì quy hoạch chung chậm điều chỉnh, quy hoạch phân khu bị “đóng khung”, dẫn đến nhiều bản đồ 1/2000 không còn phù hợp thực tiễn.
Không có cơ chế đồng kiến tạo: người dân, doanh nghiệp, tổ chức xã hội ít được tham gia từ đầu – dẫn đến quy hoạch chỉ là sản phẩm của cơ quan nhà nước, thiếu tính cộng sinh.
So với Nghị quyết 57:
Nghị quyết 57 nhấn mạnh “đổi mới cách làm chính sách”, “tạo môi trường sáng tạo mở” và “thúc đẩy liên kết Nhà nước – doanh nghiệp – xã hội”.
Quy hoạch phân khu hiện nay đi ngược tinh thần đó: nó bị hành chính hóa, không thử nghiệm mô hình hợp tác công tư, không tích hợp công nghệ, và không có cơ chế để điều chỉnh động.
3. Quy hoạch chi tiết (tỷ lệ 1/500)
Nhược điểm chính:
Trở thành công cụ “hợp thức hóa” dự án hơn là công cụ thiết kế không gian.
→ Nhiều nhà đầu tư tự lập quy hoạch 1/500 chỉ để đáp ứng thủ tục, không mang giá trị cộng đồng.
Thiếu tính thống nhất với quy hoạch 1/2000 và 1/10000: dẫn đến tình trạng “mạnh ai nấy vẽ”, không hình thành cấu trúc đô thị đồng bộ.
Không có cơ chế đánh giá sau quy hoạch: khi dự án xây xong, không có ai đánh giá xem nó có đáp ứng chỉ tiêu phát triển bền vững hay không.
Bỏ qua yếu tố con người và xã hội: quy hoạch 1/500 thường chỉ chăm chăm vào chỉ tiêu kỹ thuật (mật độ, tầng cao) mà không có chương trình an sinh, văn hóa, việc làm – trái với tinh thần “phát triển lấy con người làm trung tâm”.
So với Nghị quyết 57:
Nghị quyết 57 yêu cầu mô hình phát triển đô thị dựa trên đổi mới sáng tạo, với cấu phần kinh tế sáng tạo, xã hội sáng tạo và quản trị sáng tạo.
Quy hoạch chi tiết hiện nay vẫn đi theo lối mòn kỹ thuật – hành chính, không có sự linh hoạt để thử nghiệm các “mô hình sống mới”, “mô hình đầu tư mới” hay “mô hình hợp tác xã hội”.
4. Thiết kế đô thị
Nhược điểm chính:
Chưa được coi là công cụ pháp lý mạnh. Nhiều địa phương lập thiết kế đô thị chỉ để đủ hồ sơ, không có tính ràng buộc trong cấp phép hay quản lý kiến trúc.
Tách rời bản sắc và đời sống cộng đồng. Thiết kế đô thị hiện nay thường mang tính hình thức (mặt đứng, tuyến phố) chứ chưa phải là “thiết kế cuộc sống đô thị” – nơi con người, kinh tế, văn hóa cùng tương tác.
Không có mô hình quản lý sau thiết kế: không có “đơn vị quản trị không gian” (place management unit) để thực hiện và duy trì giá trị thiết kế trong thực tế.
So với Nghị quyết 57:
Nghị quyết 57 kêu gọi “tư duy thiết kế đô thị sáng tạo”, coi thiết kế là công cụ chiến lược để tái cấu trúc không gian, tái định hình văn hóa đô thị, thu hút nhân tài, khơi dậy năng lượng sáng tạo của người dân.
Trong khi đó, thiết kế đô thị hiện hành vẫn chỉ là phần phụ của quy hoạch, thiếu quyền lực, thiếu hành động và thiếu sức sống.
Trong khi đó, cả trong nước và thế giới, nhiều quốc gia đã áp dụng mô hình quy hoạch động, quy hoạch tích hợp vùng – đô thị – sinh thái, hoặc quy hoạch hướng dữ liệu và hành vi con người. Ở Việt Nam, Nghị quyết 57-NQ/TW năm 2024 là phản ứng chính trị đối với thực trạng này, nhấn mạnh rằng đổi mới sáng tạo không chỉ là công nghệ mà phải bắt đầu từ tư duy thể chế và quy trình làm chính sách, trong đó quy hoạch là lĩnh vực cần đổi mới cấp bách. Các nghị quyết số 31, 24 và 98 đều khẳng định cần đổi mới mô hình quy hoạch vùng, quy hoạch TP.HCM và cơ chế thí điểm đặc thù, thừa nhận rằng mô hình quy hoạch ba tầng hiện hành không còn đáp ứng yêu cầu phát triển mới và cần chuyển sang tư duy tích hợp, động, thích ứng và sáng tạo.
Thay vì duy trì mô hình ba cấp quy hoạch gồm quy hoạch chung, quy hoạch phân khu 1/2000 và quy hoạch chi tiết 1/500 như hiện nay, cần chuyển sang một hệ thống mới mang tính tích hợp và linh hoạt, gọi là Hệ thống Quy hoạch Tích hợp Linh hoạt (Integrated Adaptive Planning System). Các loại quy hoạch hiện hành vốn hình thành từ tư duy “nhà nước kiểm soát không gian”, coi quy hoạch chủ yếu là công cụ hành chính để kiểm tra, phê duyệt và cấp phép xây dựng, chứ chưa thực sự trở thành công cụ điều phối phát triển. Trong bối cảnh đô thị hiện đại, nơi các thành phố trở thành hệ sinh thái sống động, liên thông và đa ngành, mô hình quy hoạch cũ đã bộc lộ rõ hạn chế khi không đủ linh hoạt để phản ứng với biến động kinh tế – xã hội – môi trường và nhu cầu sống của người dân.
Hệ thống Quy hoạch Tích hợp Linh hoạt đề xuất một cách tiếp cận mới, trong đó quy hoạch không còn là “bản vẽ tĩnh” mà là một quy trình tương tác liên tục, vừa định hướng phát triển dài hạn, vừa cho phép điều chỉnh theo dữ liệu thực tế và nhu cầu xã hội. Trọng tâm là xây dựng một khung pháp lý hiện đại, bảo đảm quy hoạch có thể cập nhật, thử nghiệm và phản hồi theo thời gian thực. Cụ thể, hệ thống này bao gồm ba cơ chế chính:
Thứ nhất, cơ chế cập nhật linh hoạt (Adaptive Review Mechanism), cho phép quy hoạch được rà soát và điều chỉnh định kỳ dựa trên dữ liệu thực tế, đánh giá tác động của đầu tư, biến động dân số, biến đổi khí hậu, tiến bộ công nghệ và các yếu tố xã hội. Thay vì chờ các chu kỳ điều chỉnh dài hạn hàng chục năm, các cơ quan quản lý có thể cập nhật quy hoạch theo chu kỳ ngắn, đồng thời tích hợp cơ chế phản hồi từ cộng đồng và doanh nghiệp, đảm bảo rằng các quyết định luôn dựa trên bối cảnh hiện tại và triển vọng tương lai.
Thứ hai, quy trình đồng kiến tạo (Co-Creation Planning) được thiết lập để đảm bảo sự tham gia tích cực của mọi bên liên quan, bao gồm Nhà nước, doanh nghiệp, các chuyên gia và cộng đồng dân cư. Thay vì quy hoạch do cơ quan quản lý đơn phương lập ra, mọi quyết định quan trọng đều được hình thành qua quá trình trao đổi, thí nghiệm và phản hồi, nhằm vừa đáp ứng nhu cầu phát triển, vừa khuyến khích sáng tạo, thử nghiệm các mô hình mới. Quy trình này giúp tạo ra sự đồng thuận, tăng khả năng thực thi và đảm bảo rằng không gian sống được thiết kế thực sự phù hợp với nhu cầu của người dân và hoạt động kinh tế – xã hội.
Thứ ba, hệ thống dữ liệu mở (Urban Digital Platform) là nền tảng cho mọi hoạt động lập và vận hành quy hoạch. Mọi dữ liệu về sử dụng đất, hạ tầng, dân cư, môi trường, kinh tế, văn hóa và công nghệ đều được số hóa, cập nhật liên tục và công khai minh bạch. Hệ thống này không chỉ phục vụ cho các cơ quan quản lý mà còn cho phép doanh nghiệp, các tổ chức nghiên cứu và cộng đồng theo dõi, đóng góp ý kiến và tham gia vào quá trình đồng kiến tạo. Dữ liệu mở cũng là cơ sở để triển khai các mô hình mô phỏng, dự báo và đánh giá tác động, giúp quy hoạch trở thành một công cụ thông minh, phản ứng nhanh và khoa học.
Để hiện thực hóa mô hình này, cần thí điểm “Phòng thí nghiệm đô thị” tại các thành phố lớn như TP.HCM, Hà Nội và Đà Nẵng. Đây sẽ là môi trường thử nghiệm các phương pháp quy hoạch tích hợp, các cơ chế cập nhật linh hoạt, và quy trình đồng kiến tạo. Các phòng thí nghiệm đô thị cho phép áp dụng công nghệ mới, thử nghiệm các mô hình quản lý và phát triển đô thị sáng tạo, đánh giá tác động trước khi triển khai rộng rãi. Đây cũng là cơ hội để đào tạo nhân lực quy hoạch mới, nâng cao năng lực quản trị đa ngành và thử nghiệm chính sách phát triển linh hoạt, phù hợp với tinh thần Nghị quyết 57 về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Như vậy, hệ thống Quy hoạch Tích hợp Linh hoạt không chỉ thay đổi cấu trúc ba cấp cứng nhắc hiện nay mà còn tạo ra một mô hình quy hoạch sống, gắn kết dữ liệu, con người, công nghệ và chính sách, giúp đô thị trở thành hệ sinh thái thích ứng, sáng tạo và bền vững, đồng thời nâng cao năng lực điều phối phát triển quốc gia theo hướng hiện đại và hiệu quả.
Mô hình quản trị quy hoạch mới được tổ chức theo ba tầng gắn kết chặt chẽ và vận hành số hóa, nhằm thay thế mô hình ba cấp cứng nhắc hiện nay và đảm bảo tính linh hoạt, thích ứng và đồng kiến tạo trong phát triển đô thị và vùng.
Tầng đầu tiên là Tầng Chiến lược Quốc gia và Vùng, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Văn phòng Chính phủ cùng Hội đồng điều phối vùng chủ trì. Ở tầng này, các cơ quan trung ương có vai trò xác lập khung phát triển vùng và tầm nhìn dài hạn 30–50 năm, đồng thời ban hành bộ tiêu chí quy hoạch tích hợp và hướng dẫn phương pháp đổi mới sáng tạo. Tầng này cũng có nhiệm vụ phê duyệt khung điều phối vùng, thay thế cho mô hình quy hoạch chung cứng nhắc hiện nay. Các công cụ và sản phẩm chính của tầng chiến lược bao gồm khung không gian vùng, bộ tiêu chí hướng dẫn tích hợp và cổng dữ liệu mở quốc gia về quy hoạch, từ đó tạo nền tảng pháp lý, phương pháp luận và dữ liệu cho các tầng dưới.
Tầng thứ hai là Tầng Địa phương – Đô thị, do UBND tỉnh/thành phố cùng Sở Quy hoạch – Kiến trúc và Ban điều phối đô thị chịu trách nhiệm chủ trì. Ở tầng này, nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng “Chương trình phát triển không gian” (Spatial Program), thay thế cho quy hoạch phân khu truyền thống, đồng thời tổ chức các hội đồng đồng kiến tạo với sự tham gia của chuyên gia, doanh nghiệp và cộng đồng. Tầng địa phương cũng vận hành hệ thống dữ liệu, thực hiện các mô phỏng phát triển và lập báo cáo đánh giá định kỳ. Các sản phẩm của tầng này bao gồm bản đồ tương tác, các kịch bản phát triển trong vòng 10 năm và các báo cáo đánh giá định kỳ ba năm một lần, từ đó đảm bảo sự liên kết giữa chiến lược quốc gia và các dự án cụ thể, đồng thời phản hồi thông tin thực tiễn để điều chỉnh kế hoạch.
Tầng thứ ba là Tầng Dự án và Khu vực Thực thi, nơi doanh nghiệp, đơn vị tư vấn, cộng đồng cư dân và chính quyền cấp quận, huyện thực hiện các hoạt động cụ thể. Tầng này tập trung vào “thiết kế thích ứng” (Adaptive Design), thay thế cho quy hoạch chi tiết 1/500 cứng nhắc, đồng thời tổ chức thử nghiệm các mô hình nhà ở, hạ tầng và không gian công cộng theo nguyên tắc mở. Dữ liệu thực tế từ các dự án được cập nhật liên tục vào hệ thống chung, giúp phản hồi và cải thiện các quyết định quy hoạch ở các tầng trên. Các sản phẩm chính bao gồm hồ sơ thiết kế thích ứng, báo cáo dữ liệu thực tế, mô hình số 3D của khu vực và đánh giá tác động xã hội. Tầng dự án không chỉ thực thi quy hoạch mà còn là cơ chế thử nghiệm, học hỏi và cải tiến, đảm bảo rằng quy hoạch trở thành một hệ thống sống, thích ứng và sáng tạo.
Như vậy, ba tầng của mô hình quản trị quy hoạch mới vận hành liên kết, từ chiến lược quốc gia, đến định hướng không gian địa phương, rồi đến thực thi dự án và khu vực, kết nối dữ liệu, con người và công nghệ, tạo nên một hệ thống quy hoạch tích hợp, linh hoạt, thích ứng nhanh và đồng kiến tạo.
Đề xuất hợp nhất 3 cấp đồ án hiện nay (quy hoạch chung, phân khu, chi tiết) thành một hệ quy hoạch tích hợp đa lớp (Integrated Multi-layer Planning System), gồm ba lớp dữ liệu và quyết định chính:
Lớp chiến lược phát triển đô thị (Strategic Urban Layer): xác định tầm nhìn, mục tiêu, cấu trúc động của đô thị – thay thế cho “quy hoạch chung”.
Lớp tổ chức không gian chức năng – ngành nghề (Functional Layer): thể hiện mạng lưới các trung tâm, cụm ngành, vùng sinh thái và hạ tầng – kế thừa nội dung “phân khu”, nhưng theo hướng linh hoạt, có thể cập nhật theo chu kỳ 3–5 năm.
Lớp thiết kế không gian – dự án (Project Layer): định hướng thiết kế đô thị, quy mô công trình, chỉ tiêu sử dụng đất, gắn trực tiếp với kế hoạch đầu tư – thay cho “quy hoạch chi tiết 1/500”.
Ba lớp này không phải ba đồ án riêng biệt mà là một hệ thống đồng bộ, cập nhật theo thời gian, vận hành bằng cơ sở dữ liệu GIS và nền tảng số, giúp cơ quan quản lý, doanh nghiệp và cộng đồng cùng theo dõi, phản hồi và điều chỉnh.
Đột phá của loại quy hoạch này nằm ở việc chuyển từ mô hình ba cấp tĩnh, tuyến tính, hành chính hóa sang một hệ thống tích hợp, linh hoạt, thích ứng và đồng kiến tạo, nơi quy hoạch không còn là “bản vẽ phê duyệt” mà trở thành quy trình sống, kết nối dữ liệu, con người, công nghệ và chính sách. Những điểm đột phá nổi bật bao gồm:
Thứ nhất, quy hoạch trở nên linh hoạt và thích ứng theo thời gian thực. Thay vì chờ các chu kỳ điều chỉnh kéo dài hàng chục năm, hệ thống cập nhật linh hoạt (Adaptive Review Mechanism) cho phép rà soát, điều chỉnh và phản hồi ngay khi xuất hiện biến động về dân số, kinh tế, đầu tư, môi trường hay công nghệ. Điều này giúp quy hoạch không chỉ dự báo mà còn dẫn dắt phát triển một cách chủ động, phù hợp với bối cảnh biến động nhanh của xã hội và thị trường.
Thứ hai, quy hoạch được xây dựng theo nguyên tắc đồng kiến tạo (Co-Creation Planning), kết hợp Nhà nước, doanh nghiệp, chuyên gia và cộng đồng. Sự tham gia trực tiếp này không chỉ làm tăng tính khả thi và hiệu quả thực thi mà còn giải phóng năng lực sáng tạo của các bên liên quan, tạo ra các giải pháp thích ứng, đổi mới, và thiết thực với nhu cầu thực tế.
Thứ ba, quy hoạch vận hành trên hệ thống dữ liệu mở (Urban Digital Platform), nơi mọi thông tin về sử dụng đất, hạ tầng, dân cư, kinh tế, môi trường và công nghệ được số hóa, cập nhật liên tục và công khai minh bạch. Hệ thống này không chỉ hỗ trợ ra quyết định dựa trên dữ liệu mà còn cho phép mô phỏng kịch bản, đánh giá tác động và học hỏi từ các thử nghiệm, từ đó trở thành một công cụ thông minh, phản ứng nhanh với biến động.
Đặc biệt, mô hình này phù hợp với thực trạng Việt Nam và những đô thị đang phát triển nhanh bởi nó giải quyết trực tiếp các vấn đề mà mô hình ba cấp cũ không thể: quy hoạch lỗi thời nhanh, đầu tư manh mún, hạ tầng phân mảnh, thiếu liên kết giữa chiến lược, kế hoạch và dự án. Trong bối cảnh biến động kinh tế lớn, thay đổi nhanh chóng về công nghệ và nhu cầu xã hội, quy hoạch tích hợp linh hoạt cho phép vừa giữ tầm nhìn dài hạn, vừa phản ứng kịp thời với các cơ hội và rủi ro mới, đảm bảo đô thị và vùng phát triển bền vững, đồng bộ và hiệu quả.
Trong mô hình quy hoạch tích hợp linh hoạt, các bên liên quan không còn bị động trong việc xin phê duyệt, điều chỉnh hay chờ hướng dẫn, mà có thể chủ động lập kế hoạch, tham gia thử nghiệm và đóng góp vào quá trình phát triển không gian sống của chính họ. Thay vì quy trình cứng nhắc và kéo dài, mô hình mới xác lập khung thử nghiệm (Urban Sandbox) – một cơ chế cho phép các bên thử nghiệm các ý tưởng, dự án và giải pháp phát triển trong phạm vi cho phép, đồng thời thu thập dữ liệu và phản hồi để điều chỉnh quy hoạch tổng thể.
Ở tầng chiến lược quốc gia và vùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Văn phòng Chính phủ và Hội đồng điều phối vùng đóng vai trò xác lập khung phát triển dài hạn, tiêu chí quy hoạch tích hợp và các nguyên tắc thử nghiệm. Họ không chỉ ban hành định hướng mà còn tạo môi trường pháp lý, công cụ dữ liệu và khung thử nghiệm, để các bên liên quan khác có thể tham gia chủ động.
Tại tầng địa phương – đô thị, UBND tỉnh/thành phố cùng Sở Quy hoạch – Kiến trúc và Ban điều phối đô thị tổ chức quy trình đồng kiến tạo, nơi chính quyền, chuyên gia, doanh nghiệp và cộng đồng cùng tham gia xây dựng “Chương trình phát triển không gian”. Ở đây, mọi ý tưởng về đầu tư, hạ tầng, không gian công cộng hay nhà ở đều được thảo luận, thử nghiệm và mô phỏng trước khi triển khai thực tế. Chính quyền địa phương không còn là người duy nhất quyết định, mà trở thành người điều phối và kết nối, bảo đảm các quyết định vừa tuân thủ chiến lược vùng vừa phù hợp thực tiễn và năng lực của địa phương.
Trên tầng dự án và khu vực thực thi, doanh nghiệp, đơn vị tư vấn và cộng đồng cư dân được trao quyền chủ động triển khai các dự án thử nghiệm. Họ thực hiện thiết kế thích ứng, thử nghiệm các mô hình nhà ở, hạ tầng, không gian công cộng và dịch vụ đô thị theo nguyên tắc mở, đồng thời liên tục cập nhật dữ liệu vào hệ thống số hóa chung. Việc này tạo cơ chế học hỏi liên tục, nơi mọi bên có thể quan sát, đánh giá và cải tiến, thay vì chờ phê duyệt hay hướng dẫn từ trên xuống.
Như vậy, cơ chế đồng kiến tạo đảm bảo rằng mọi bên đều là chủ thể, từ việc lập kế hoạch, thử nghiệm, triển khai đến điều chỉnh. Thay vì chờ quy trình hành chính, các bên tham gia có thể khai thác khung thử nghiệm, chia sẻ dữ liệu, phối hợp với các bên khác và đóng góp trực tiếp vào quyết định chiến lược và phát triển địa phương. Mô hình này không chỉ thúc đẩy sáng tạo, tăng tốc triển khai mà còn giúp quy hoạch trở nên linh hoạt, thực tiễn và thích ứng với biến động nhanh của đô thị và nền kinh tế
Loại quy hoạch tích hợp linh hoạt này có khả năng phá vỡ ba điểm nghẽn lớn đang tồn tại trong hệ thống quy hoạch hiện nay, giúp đô thị và vùng phát triển hiệu quả hơn, thích ứng nhanh với biến động xã hội và kinh tế. Ba điểm nghẽn đó cụ thể là:
Thứ nhất, nghẽn về tính linh hoạt và cập nhật. Quy hoạch hiện hành ba tầng cứng nhắc không thể điều chỉnh kịp thời trước những thay đổi của kinh tế, dân số, công nghệ hay môi trường. Các đồ án chung, phân khu, chi tiết mất nhiều năm mới được rà soát và điều chỉnh, dẫn đến việc “quy hoạch lỗi thời trước khi kịp triển khai”. Hệ thống tích hợp linh hoạt phá vỡ nghẽn này bằng cơ chế cập nhật liên tục, cho phép phản hồi, mô phỏng và điều chỉnh theo dữ liệu thực tế, đảm bảo quy hoạch luôn dẫn dắt phát triển chứ không chỉ là thủ tục hành chính.
Thứ hai, nghẽn về sự tham gia và đồng kiến tạo. Mô hình cũ đặt Nhà nước và cơ quan quản lý làm trung tâm, các doanh nghiệp và cộng đồng chỉ có thể “xin phép” hay tuân thủ hướng dẫn. Điều này tạo ra khoảng cách giữa quy hoạch và nhu cầu thực tế, đồng thời kìm hãm sáng tạo. Hệ thống mới giải quyết nghẽn này bằng cơ chế đồng kiến tạo, nơi mọi bên liên quan – từ chính quyền, doanh nghiệp đến cư dân – đều là chủ thể trong lập kế hoạch, thử nghiệm và triển khai. Quy hoạch trở thành một quá trình tương tác liên tục, tăng tính khả thi, sáng tạo và phù hợp thực tiễn.
Thứ ba, nghẽn về liên kết và điều phối giữa các cấp và ngành. Ba loại đồ án hiện nay vận hành tách biệt, phân mảnh, gây lãng phí nguồn lực, đầu tư manh mún, hạ tầng không đồng bộ. Mô hình tích hợp linh hoạt phá vỡ nghẽn này bằng cách gắn kết ba tầng từ chiến lược quốc gia – vùng, địa phương – đô thị, đến dự án – khu vực thực thi, kết nối dữ liệu và cơ chế phản hồi. Các quyết định được phối hợp liên ngành, liên cấp, giúp đồng bộ hóa không gian, hạ tầng, nguồn lực và chính sách, đồng thời đảm bảo mọi quyết định dựa trên bối cảnh thực tế và dữ liệu minh bạch.
Nhờ phá vỡ được ba điểm nghẽn này, quy hoạch không còn là thủ tục hành chính tĩnh, mà trở thành công cụ dẫn dắt phát triển thông minh, linh hoạt và sáng tạo, phù hợp với tốc độ thay đổi nhanh chóng của kinh tế, đô thị và xã hội hiện nay.
Nội dung nghiên cứu cụ thể của quy hoạch tích hợp linh hoạt bao gồm nhiều lớp thông tin và phân tích, từ chiến lược vùng đến thiết kế dự án. Ở cấp chiến lược quốc gia và vùng, nghiên cứu tập trung vào xác lập tầm nhìn dài hạn 30–50 năm, bao gồm không gian phát triển kinh tế, phân bổ hạ tầng, mạng lưới giao thông, khu dân cư, không gian công cộng, và các khu vực sinh thái quan trọng. Đồng thời, nghiên cứu xác định các nguyên tắc tích hợp và đổi mới sáng tạo, khung thử nghiệm và tiêu chí đánh giá tác động của mọi quyết định quy hoạch. Tầng địa phương – đô thị nghiên cứu chi tiết hơn về chương trình phát triển không gian (Spatial Program), bao gồm kịch bản phát triển từng khu vực, nhu cầu nhà ở, hạ tầng dịch vụ, mô hình giao thông và các cơ chế đồng kiến tạo với cộng đồng, doanh nghiệp và chuyên gia. Tầng dự án – khu vực thực thi tập trung vào thiết kế thích ứng, thử nghiệm các mô hình nhà ở, hạ tầng, không gian công cộng và dịch vụ đô thị, đồng thời thu thập dữ liệu thực tế về hành vi, nhu cầu và tác động kinh tế – xã hội.
Ai nghiên cứu và nghiên cứu như thế nào? Mô hình này là một hợp tác đa ngành, đa bên, kết hợp năng lực của cơ quan Nhà nước, viện nghiên cứu, trường đại học, đơn vị tư vấn chuyên nghiệp, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư. Ở cấp chiến lược, Bộ KHĐT, Bộ Xây dựng, Văn phòng Chính phủ cùng Hội đồng điều phối vùng chỉ đạo và tổng hợp nghiên cứu, đảm bảo khung pháp lý, tiêu chí và tầm nhìn. Ở cấp địa phương, Sở Quy hoạch – Kiến trúc và Ban điều phối đô thị tổ chức nghiên cứu dữ liệu thực địa, khảo sát nhu cầu dân cư, mô phỏng kịch bản phát triển và đánh giá tác động. Tầng dự án và khu vực thực thi được thực hiện bởi các doanh nghiệp, đơn vị tư vấn, cộng đồng và chính quyền quận/huyện, thực hiện các thử nghiệm thiết kế, thu thập dữ liệu thực tế và phản hồi thông tin vào hệ thống chung. Phương pháp nghiên cứu kết hợp dữ liệu định lượng và định tính, bao gồm khảo sát, GIS, mô phỏng 3D, phân tích hành vi và kinh tế đô thị, đánh giá tác động xã hội, môi trường và hạ tầng.
Tác động đến các bên tham gia là rất rõ ràng. Nhà nước ở mọi cấp trở thành người điều phối, cung cấp khung pháp lý, dữ liệu và tiêu chí, thay vì chỉ cấp phép. Doanh nghiệp và nhà đầu tư được chủ động thử nghiệm các dự án, tối ưu hóa nguồn lực, tìm cơ hội kinh doanh, đồng thời chia sẻ dữ liệu để tăng khả năng thực thi. Cộng đồng dân cư trở thành đối tác chủ động trong thiết kế và giám sát, đảm bảo không gian sống phù hợp nhu cầu và nâng cao chất lượng cuộc sống. Chuyên gia và viện nghiên cứu có thể thử nghiệm mô hình mới, đánh giá tác động và kiến tạo chính sách dựa trên dữ liệu thực tế.
Cách lấy kinh tế tư nhân làm động lực phát triển chính là thông qua cơ chế đồng kiến tạo và khung thử nghiệm. Doanh nghiệp không phải chờ hướng dẫn hay phê duyệt từng bước mà được phép chủ động thử nghiệm dự án trong khung thử nghiệm an toàn, vừa tạo lợi nhuận vừa cung cấp dữ liệu, mô hình và kinh nghiệm cho hệ thống quy hoạch. Nhà nước đóng vai trò điều phối và khuyến khích, đưa ra các chính sách ưu tiên, cơ chế hỗ trợ tài chính, hạ tầng và kết nối các bên, để lợi ích tư nhân song hành với lợi ích cộng đồng và chiến lược phát triển vùng. Cách làm này biến doanh nghiệp thành động lực kiến tạo và thử nghiệm sáng tạo, thay vì chỉ là đối tượng tuân thủ hành chính, đồng thời giảm rủi ro và tăng tốc triển khai các dự án đô thị, nhà ở và hạ tầng chiến lược.
Như vậy, quy hoạch tích hợp linh hoạt vừa là công cụ khoa học – dữ liệu, vừa là công cụ chính sách – kinh tế, kết nối Nhà nước, tư nhân, chuyên gia và cộng đồng để tạo ra hệ sinh thái phát triển đô thị thông minh, sáng tạo và bền vững.
Trong mô hình quy hoạch tích hợp linh hoạt, TP.HCM sẽ vận hành một cơ chế đồng kiến tạo và thích ứng, nơi vai trò, trách nhiệm và quyền lợi của từng bên được phân định rõ ràng theo hai cấp chính quyền là thành phố và phường/xã. Ở tầng thành phố, UBND TP.HCM, Sở Quy hoạch – Kiến trúc, Sở Xây dựng, Sở Giao thông – Vận tải, Sở Tài nguyên – Môi trường, cùng các viện nghiên cứu, trường đại học chuyên ngành và các đơn vị tư vấn quy hoạch chuyên sâu, sẽ chịu trách nhiệm xây dựng Chương trình phát triển không gian toàn TP. Nội dung nghiên cứu gồm phân tích dữ liệu dân số, kinh tế, hạ tầng, môi trường, hành vi đô thị và nhu cầu xã hội; xác lập các kịch bản phát triển 10–20 năm; đề xuất các khu vực ưu tiên phát triển nhà ở, hạ tầng xanh, giao thông thông minh và không gian công cộng. Tầng thành phố cũng vận hành hệ thống dữ liệu mở, giám sát việc triển khai các dự án thử nghiệm tại phường/xã, và tổng hợp phản hồi từ cộng đồng, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý để cập nhật và điều chỉnh chương trình phát triển.
Ở tầng phường/xã, UBND phường hoặc xã cùng các tổ chức cộng đồng, doanh nghiệp địa phương, đơn vị tư vấn và các trường học, viện nghiên cứu tham gia trực tiếp vào việc thiết kế thích ứng và triển khai dự án thử nghiệm. Họ lập kế hoạch chi tiết cho từng khu vực, xác định các nhu cầu cụ thể về nhà ở, hạ tầng, không gian công cộng và dịch vụ xã hội. Công việc thực hiện gồm khảo sát thực địa, tổ chức hội đồng đồng kiến tạo với sự tham gia của người dân, doanh nghiệp, chuyên gia và các sở ngành liên quan, lập mô hình số hóa khu vực, mô phỏng kịch bản phát triển và đánh giá tác động kinh tế – xã hội. Phường/xã chịu trách nhiệm vận hành dữ liệu thu thập được từ dự án thử nghiệm, phản hồi lên UBND TP và Sở Quy hoạch – Kiến trúc để cập nhật chương trình phát triển tổng thể.
Vai trò của các sở ngành là cung cấp dữ liệu chuyên ngành, tiêu chí kỹ thuật và khung pháp lý cho cả thành phố và phường/xã. Viện nghiên cứu, trường đại học và đơn vị tư vấn chuyên môn thực hiện phân tích dữ liệu, mô phỏng, thiết kế thử nghiệm và đánh giá tác động. Các doanh nghiệp có thể triển khai dự án nhà ở, hạ tầng hay dịch vụ, đồng thời thử nghiệm các giải pháp sáng tạo trong khung thử nghiệm đô thị đã được UBND TP xác lập. Cộng đồng dân cư là đối tác chủ động, tham gia giám sát, đề xuất điều chỉnh và đánh giá tác động đến đời sống, không gian công cộng và tiện ích xã hội.
Như vậy, mỗi bên đều có trách nhiệm rõ ràng: thành phố làm chiến lược, định hướng, giám sát và cập nhật dữ liệu; phường/xã thực hiện thử nghiệm, thu thập dữ liệu và đồng kiến tạo; sở ngành, viện trường cung cấp chuyên môn và phương pháp; doanh nghiệp triển khai dự án thử nghiệm; cộng đồng tham gia đánh giá, phản hồi. Quyền lợi được chia đồng đều: thành phố có chương trình phát triển thực tiễn, phường/xã được chủ động điều phối và triển khai, doanh nghiệp khai thác cơ hội kinh doanh và thử nghiệm sáng tạo, cộng đồng có không gian sống phù hợp với nhu cầu thực tế.
Cơ chế này giải quyết được điểm nghẽn “xin – cho”, phân mảnh và chậm trễ”, biến quy hoạch thành một quy trình linh hoạt, thích ứng, đồng kiến tạo và dữ liệu minh bạch, đảm bảo TP.HCM phát triển đồng bộ, sáng tạo và bền vững, ngay cả trong bối cảnh biến động nhanh về kinh tế, xã hội và công nghệ.

KIẾN NGHỊ
VỀ VIỆC NGHIÊN CỨU, HÌNH THÀNH MỘT LOẠI HÌNH ĐỒ ÁN QUY HOẠCH MỚI
CÓ TÍNH CHIẾN LƯỢC, LINH HOẠT VÀ TÍCH HỢP HƠN CHO PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ VIỆT NAM

Kính gửi:

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Ban Kinh tế Trung ương

Ban Chỉ đạo Cải cách chính sách và thể chế phát triển quốc gia

Bộ Chính trị (qua Văn phòng Trung ương Đảng)

I. LÝ DO VÀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA KIẾN NGHỊ

Thưa các đồng chí,

Trong bối cảnh Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới – chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, hướng tới quốc gia công nghiệp phát triển và đô thị hóa bền vững, hệ thống quy hoạch đô thị hiện nay đang bộc lộ những giới hạn cơ bản về tư duy, phương pháp và cấu trúc thể chế.

Phần lớn các đồ án quy hoạch vẫn được xây dựng theo cách tuyến tính, hành chính và tĩnh, chủ yếu làm công cụ “kiểm soát phát triển”, chứ chưa trở thành công cụ điều phối và dẫn dắt phát triển.
Điều này dẫn đến tình trạng:

Quy hoạch thường đi sau thực tế, thiếu cơ chế điều chỉnh linh hoạt.

Các tầng quy hoạch (quốc gia – vùng – đô thị – dự án) thiếu liên thông và phản hồi hai chiều.

Quy hoạch trở nên nặng hình thức, thiếu sức sống, khó tích hợp các yếu tố mới như công nghệ, dữ liệu, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, hay những biến động xã hội – kinh tế nhanh.

Trong khi đó, trên thế giới, nhiều quốc gia tiên tiến (như Singapore, Hàn Quốc, Hà Lan, Đức, Pháp…) đã chuyển từ “quy hoạch cố định” sang mô hình quy hoạch tích hợp linh hoạt (Integrated Adaptive Planning System) – coi quy hoạch là một hệ thống sống, được cập nhật thường xuyên, gắn với dữ liệu và phản hồi xã hội, giúp điều phối chiến lược phát triển vùng – đô thị – con người – công nghiệp theo thời gian thực.

Việt Nam, nếu muốn bước vào giai đoạn “phát triển có tầm nhìn dài hạn và tự chủ thể chế”, cần một loại hình đồ án quy hoạch mới – vừa mang tính chiến lược quốc gia, vừa có tính mở, linh hoạt và học hỏi từ thực tiễn. II. NỘI DUNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG CỦA LOẠI HÌNH ĐỒ ÁN QUY HOẠCH MỚI

Kiến nghị Trung ương Đảng chỉ đạo nghiên cứu hình thành một loại hình đồ án quy hoạch chiến lược tích hợp linh hoạt, có thể gọi tạm là:

“Đồ án Quy hoạch Tích hợp Chiến lược – Linh hoạt Vùng và Đô thị”
(Integrated Strategic Adaptive Planning Framework – viết tắt ISAP Việt Nam)

1. Mục tiêu

Xây dựng một công cụ quy hoạch mang tính điều phối chiến lược quốc gia, giúp kết nối các tầng quy hoạch (chiến lược phát triển, quy hoạch vùng, quy hoạch đô thị, quy hoạch ngành và dự án).

Thiết lập cơ chế học hỏi – phản hồi – điều chỉnh liên tục, bảo đảm quy hoạch luôn thích ứng với thực tiễn kinh tế, xã hội, môi trường và công nghệ.

Chuyển từ “tư duy kiểm soát” sang tư duy hỗ trợ, kiến tạo và dẫn dắt phát triển.

2. Đặc trưng cơ bản

Tích hợp đa ngành, đa tầng: Liên kết giữa quy hoạch kinh tế, xã hội, đất đai, hạ tầng, môi trường, giao thông, dân cư, năng lượng và công nghệ.

Linh hoạt và thích ứng: Có cơ chế cập nhật định kỳ (3–5 năm) và cơ chế “điều chỉnh nhanh” (Adaptive Update) khi điều kiện thực tế thay đổi.

Dựa trên dữ liệu và mô phỏng số: Ứng dụng nền tảng dữ liệu không gian, mô hình đô thị số (Digital Twin), trí tuệ nhân tạo trong dự báo và đánh giá chính sách.

Mở và tham gia: Cho phép các viện nghiên cứu, doanh nghiệp, cộng đồng và tổ chức quốc tế cùng tham gia phản hồi, đề xuất và đóng góp dữ liệu.

Gắn với năng lực điều phối thể chế: Mỗi đồ án đi kèm cơ chế tổ chức, nhân sự, và khung vận hành cụ thể để đảm bảo tính thực thi.

3. Phạm vi áp dụng

Trước mắt, đề nghị triển khai thí điểm loại hình quy hoạch này tại TP.HCM mở rộng, Hà Nội và vùng đồng bằng sông Hồng, nơi đang chịu áp lực phát triển đô thị – công nghiệp – xã hội lớn nhất.

Sau giai đoạn thí điểm, tổng kết và nhân rộng thành một mô hình quốc gia về quy hoạch thích ứng tích hợp, áp dụng trong chiến lược phát triển quốc gia giai đoạn 2030–2050. III. ĐỀ XUẤT VỀ TỔ CHỨC VÀ CƠ CHẾ CHỈ ĐẠO

Thành lập Nhóm Nghiên cứu Chiến lược cấp Trung ương về “Đổi mới mô hình quy hoạch quốc gia”, do Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, cùng các viện nghiên cứu chiến lược, đại học và chuyên gia độc lập.

Tổ chức Diễn đàn quốc gia về Quy hoạch tích hợp linh hoạt, mời các địa phương lớn (TP.HCM, Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu) tham gia đối thoại, góp ý và xây dựng khung thử nghiệm.

Đề xuất xây dựng Nghị quyết của Bộ Chính trị hoặc Đề án cấp Nhà nước về “Đổi mới phương pháp và mô hình quy hoạch quốc gia theo hướng tích hợp – linh hoạt – chiến lược”, làm cơ sở để ban hành Luật Quy hoạch sửa đổi giai đoạn 2026–2028.

Phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ triển khai chương trình nghiên cứu trọng điểm quốc gia “Hệ thống dữ liệu và công cụ điều phối quy hoạch đô thị tích hợp”, làm nền tảng cho quy hoạch số hóa và thích ứng. Việc hình thành một loại hình đồ án quy hoạch mới – mang tính chiến lược, linh hoạt và tích hợp là yêu cầu tất yếu để đưa Việt Nam bước sang giai đoạn quy hoạch kiến tạo phát triển, chứ không chỉ quy hoạch quản lý.

Đây sẽ là công cụ giúp Đảng và Nhà nước:

Nâng cao năng lực điều phối chiến lược quốc gia;

Tăng tính chủ động – dự báo – thích ứng trong mọi cấp quy hoạch;

Xây dựng hệ thống phát triển đô thị và vùng động lực có khả năng học hỏi, tự điều chỉnh và phát triển bền vững.

Chúng tôi trân trọng kiến nghị Trung ương Đảng và Ban Kinh tế Trung ương xem xét, nghiên cứu và chỉ đạo xây dựng Đề án quốc gia về “Mô hình Quy hoạch Tích hợp Chiến lược – Linh hoạt”, coi đây là một đột phá thể chế nền tảng cho giai đoạn phát triển mới của Việt Nam.

Trân trọng kính trình.
Ban Chính sách, chiến lược Trung ương  trả lời

00:00

/

00:00

  • Tải xuống
  • Tốc độ phát
Kính gửi: Ông Trương Nam Thuận!
Ban Chính sách, chiến lược Trung ương đã nhận được góp ý về việc nghiên cứu, hình thành một loại hình đồ án quy hoạch mới có tính chiến lược, linh hoạt và tích hợp hơn cho phát triển đô thị Việt Nam theo tinh thần đổi mới sáng tạo của Nghị quyết 57-NQ/TW.
Sau khi nghiên cứu, Ban Chính sách, chiến lược Trung ương nhận thấy những nội dung góp ý, đề xuất có giá trị tham khảo tốt và có thể nghiên cứu, ứng dụng trong thực tiễn vào thời điểm phù hợp.
Ban Chính sách, chiến lược Trung ương trân trọng gửi đến quý Ông một số ý kiến như trên.
Trân trọng cảm ơn!
Kiến nghị cùng chủ đề
Xây dựng nhà không phép
0 lượt xem
KÍNH GỬI SỞ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TPHCM : KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT ĐỀ ÁN NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP XỬ LÝ KHOẢNG HỞ, ĐIỂM NGHẼN CỦA NGHỊ QUYẾT 57
0 lượt xem
Nâng cấp tính năng tự động trích yếu nội dung văn bản trong thao tác dự thảo văn bản đi trên Hệ thống thông tin điều hành tác nghiệp của Đảng
0 lượt xem
KÍNH GỬI UBND TPHCM VÀ SỞ NỘI VỤ : KIẾN NGHỊ TRIỂN KHAI THÍ ĐIỂM MÔ HÌNH “TRUNG TÂM ĐỒNG HÀNH – SÁNG TẠO – PHÁT TRIỂN” TẠI TP.HCM THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT 57
0 lượt xem
Kính gửi Bộ tư pháp : Kiến nghị về việc xây dựng “Khung tư duy và phương pháp làm luật từ cơ sở” – hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị
0 lượt xem