Trang chủ
XÂY DỰNG ĐỀ ÁN QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN CÔN ĐẢO HƯỚNG ...
XÂY DỰNG ĐỀ ÁN QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN CÔN ĐẢO HƯỚNG TỚI DU LỊCH HÒA BÌNH

00:00

/

00:00

  • Tải xuống
  • Tốc độ phát
Kiến nghị một đề án chiến lược xây dựng tầm nhìn cho côn đảo, hướng tới du lịch Hòa Bình, thông điệp toàn cầu, Tạo ra một sự đột phá mới trong tư tưởng phát triển, khẳng định lợi thế của việt nam nói chung và côn đảo nói riêng. Đây là đề án đột phá, cần sự trợ giúp và hỗ trợ tài chính để có thể tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu, thực hiện tư vấn cho lãnh đạo đảng, chính phủ.
Tài liệu kèm theo
ĐỀ ÁN QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN CÔN ĐẢO
392.11 KB
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch  trả lời

00:00

/

00:00

  • Tải xuống
  • Tốc độ phát
Kính gửi Công dân,
Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam đánh giá đề án “Khởi nghiệp Dự án du lịch hòa bình thông qua nghệ thuật tại Côn Đảo” có những điểm mới, mang tính sáng tạo, kịp thời nắm bắt các lợi thế tiềm ẩn của các giá trị lịch sử, cách mạng, con người Việt Nam để hình thành sản phẩm mang tính cá biệt và có tính gây dựng thương hiệu tích cực cho du lịch Việt Nam. Tuy nhiên, bố cục của đề án không rõ ràng, do đó chưa có cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn để xây dựng đề án.
Đề án “Dự án du lịch hòa bình thông qua nghệ thuật tại Côn Đảo”:
Cần rà soát quy hoạch và đề án phát triển huyện Côn Đảo trước đây và tính toán các nội dung đề xuất về nguồn lực và thời gian để có tính thuyết phục hơn. Nhóm tác giả cần nghiên cứu sâu hơn để xây dựng kế hoạch triển khai với lộ trình cụ thể, nghiên cứu bổ sung các kiến nghị của đề án đối với các bên liên quan. Về mục tiêu tăng trưởng khách du lịch, cần tính toán và xem xét lại mục tiêu tăng trưởng khách du lịch trong giai đoạn tới, đánh giá hiện trạng cơ sở vật chất phục vụ khách du lịch lưu trú tại Côn Đảo để lượng khách đến Côn Đảo cần phù hợp với sức chứa của điểm đến, đảm bảo mục tiêu phát triển du lịch bền vững.
Phản hồi của cá nhân / tổ chức gửi
Nam Thuận Trương

18:29 (4 phút trước)


đến VƯƠNG

Việt Nam hoàn toàn có cơ sở để xây dựng và lan tỏa khái niệm “du lịch hòa bình” ra toàn cầu, bởi lịch sử và văn hóa của đất nước đã hình thành tinh thần yêu chuộng hòa bình sâu sắc. Một dân tộc từng trải qua nhiều cuộc chiến, nhưng luôn biết vươn lên từ đổ nát bằng khát vọng hòa hợp, dung hòa và tái thiết, Việt Nam sở hữu một vị thế đạo đức đặc biệt khi nói về hòa bình. Hình ảnh đất nước mở lòng đón khách, giàu truyền thống hiếu khách và gắn bó với thiên nhiên, cộng đồng chính là nền tảng để khẳng định thông điệp này. Du lịch hòa bình không chỉ là tham quan hay giải trí, mà là trải nghiệm nhân văn, nơi du khách được kết nối sâu sắc với thiên nhiên, cộng đồng và những giá trị phổ quát của nhân loại. Việt Nam có thể phát triển một hệ sinh thái du lịch hòa bình đa tầng, từ những không gian thiên nhiên yên bình như rừng nguyên sinh, bãi biển trong lành, cánh đồng lúa, con sông hiền hòa, đến các hoạt động giao lưu văn hóa, lễ hội, âm nhạc, ẩm thực và nghệ thuật truyền thống. Du khách không chỉ quan sát mà còn tham gia, sẻ chia, đóng góp vào các hoạt động bảo tồn môi trường, giáo dục, chăm sóc cộng đồng, biến chuyến đi thành hành trình nhân văn và để lại dấu ấn tích cực.

Lợi thế của Việt Nam nằm ở sự kết hợp giữa thiên nhiên, văn hóa, lịch sử và giá trị nhân văn mà ít quốc gia nào có được. Trong khi nhiều nước tập trung vào du lịch nghỉ dưỡng, văn hóa hay sinh thái riêng lẻ, du lịch hòa bình Việt Nam tổng hòa tất cả các yếu tố: vừa mang trải nghiệm an nhiên, vừa nuôi dưỡng tinh thần hòa hợp, vừa lan tỏa thông điệp nhân văn và hợp tác quốc tế. Việt Nam không chỉ có ký ức chiến tranh, mà còn có câu chuyện vượt lên bằng hòa bình, tạo nên uy tín đạo đức đặc biệt trên thế giới. Khi du lịch hòa bình trở thành thương hiệu quốc gia, Việt Nam khẳng định vị thế của mình: một đất nước nhỏ bé nhưng giàu khát vọng, từ trải nghiệm chiến tranh đến lan tỏa hòa bình toàn cầu.

Để hiện thực hóa tầm nhìn này, cần xây dựng hệ sinh thái toàn diện: thiên nhiên bảo tồn, giao lưu văn hóa, dịch vụ xã hội, không gian đối thoại quốc tế, và cơ chế phối hợp giữa nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng. Du khách trở thành những “sứ giả hòa bình”, vừa trải nghiệm, vừa đồng hành, kiến tạo giá trị chung. Việt Nam sẽ trở thành điểm đến của những công dân toàn cầu yêu hòa bình, nơi họ tìm thấy sự an nhiên, cơ hội tham gia các hành động ý nghĩa và mang câu chuyện hòa bình lan tỏa ra thế giới.

Điều đặc biệt là, giá trị bền vững của du lịch hòa bình không nằm ở cơ sở vật chất hay vốn đầu tư, mà nằm ở hạ tầng vô hình: tâm lý khoan dung, yêu hòa bình và sự hiếu khách của người Việt. Đây là tài sản quốc gia hiếm có, đủ sức tạo sức hút mà không cần phô trương. Khi những giá trị này được gìn giữ và truyền đi, mọi sản phẩm và dịch vụ du lịch khác sẽ tự nhiên được nâng tầm, biến Việt Nam thành thương hiệu không thể sao chép: điểm đến của hòa bình, nhân văn và sự khác biệt được trân trọng.

Côn Đảo là một quần đảo độc đáo, không chỉ nổi bật bởi cảnh quan thiên nhiên nguyên sơ mà còn bởi chiều sâu lịch sử và giá trị văn hóa – nhân văn đặc biệt. Trong nửa đầu năm 2025, Côn Đảo đã đón gần 400.000 lượt khách, tăng hơn 22% so với cùng kỳ năm trước, doanh thu đạt khoảng 71 triệu USD. Đây là minh chứng cho sức hút du lịch mạnh mẽ, nhưng đồng thời cũng bộc lộ những hạn chế rõ rệt: hạ tầng giao thông chưa phát triển đồng bộ, các tuyến phà từ đất liền gián đoạn, một số bãi biển công cộng bị chặn bởi các resort cao cấp, trong khi sản phẩm du lịch chủ yếu thiên về tâm linh và nghỉ dưỡng, thiếu sự đa dạng về trải nghiệm văn hóa, nghệ thuật và giáo dục cộng đồng.

Căn cứ vào những thực tế này, Côn Đảo hội tụ ba yếu tố quan trọng để trở thành điểm đến du lịch hòa bình – nghệ thuật. Thứ nhất, đây là biểu tượng lịch sử quốc gia và nhân loại. Trong thế kỷ XX, Côn Đảo từng là “địa ngục trần gian”, giam giữ hàng vạn chiến sĩ cách mạng, trí thức và văn nghệ sĩ. Những nhà tù, chuồng cọp và di tích lịch sử không chỉ ghi dấu nỗi đau của quá khứ mà còn khắc sâu khát vọng hòa bình và tự do. Việc phát triển du lịch hòa bình tại đây không chỉ giúp du khách tham quan mà còn sống trong không gian ký ức, đối thoại với lịch sử và chiêm nghiệm giá trị nhân văn sâu sắc.

Thứ hai, Côn Đảo sở hữu hệ sinh thái biển – rừng phong phú, với rạn san hô, cỏ biển, rừng nguyên sinh và các loài động vật quý hiếm như rùa biển và đồi mồi. Không gian thiên nhiên nguyên sơ này tạo điều kiện cho các hoạt động du lịch sinh thái và bảo tồn, đồng thời là môi trường lý tưởng để phát triển các trải nghiệm nghệ thuật và giáo dục cộng đồng, giúp du khách nhận thức sâu sắc mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, đồng thời nâng tầm thông điệp hòa bình từ một giá trị tinh thần sang hành động cụ thể.

Thứ ba, vị trí biệt lập nhưng vẫn dễ tiếp cận từ đất liền giúp Côn Đảo vừa duy trì sự tĩnh lặng cần thiết cho chiêm nghiệm và trải nghiệm nghệ thuật, vừa đảm bảo khả năng triển khai các dự án mới mà không chịu áp lực thương mại hóa quá sớm. Đây là yếu tố chiến lược để Côn Đảo trở thành mô hình “hòn đảo hòa bình” mang tầm quốc tế.

Về cơ sở thực tiễn, Côn Đảo đang triển khai nhiều sáng kiến phát triển bền vững: chương trình “Không rác nhựa”, bảo tồn rùa biển, phát triển du lịch sinh thái và tâm linh, đồng thời có cơ chế hợp tác công – tư cho các dự án bảo tồn và du lịch. Về lý luận, du lịch hòa bình kết hợp giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật với bảo tồn thiên nhiên, tạo ra trải nghiệm đa tầng, nuôi dưỡng văn hóa, giáo dục và tinh thần đối thoại nhân văn.

Hành lang pháp lý cho mô hình này đã tương đối đầy đủ. Quyết định 495/QĐ-UBND của tỉnh Ba Rịa – Vũng Tàu phê duyệt mô hình kinh tế tuần hoàn, đặt mục tiêu xử lý chất thải, sử dụng năng lượng tái tạo và tái chế tài nguyên. Kế hoạch phát triển du lịch sinh thái đến 2030 cho phép mở các khu du lịch sinh thái kết hợp bảo tồn, giữ nguyên quyền sở hữu rừng, đồng thời khuyến khích hợp tác công – tư. Luật Lâm nghiệp 2017, Luật Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, cùng các nghị định liên quan, bảo đảm sự cân bằng giữa bảo tồn và phát triển. Ban Quản lý Khu du lịch Quốc gia Côn Đảo, Vườn Quốc gia và UBND tỉnh có cơ chế phối hợp triển khai các chính sách và quản lý dự án, đảm bảo tính khả thi và bền vững cho các sáng kiến mới.

Dựa trên những cơ sở này, tầm nhìn phát triển Côn Đảo được định hướng thành trung tâm du lịch – nghệ thuật vì hòa bình của Việt Nam và Đông Nam Á, với Công viên Nghệ thuật Hòa bình quy mô quốc tế làm hạt nhân. Các mục tiêu cụ thể gồm: xây dựng không gian nghệ thuật quốc tế, hình thành hệ sinh thái du lịch – nghệ thuật đa tầng, tái định vị thương hiệu Côn Đảo thành “hòn đảo hòa bình – sáng tạo – hồi sinh tinh thần”, và phát triển hệ sinh thái sáng tạo gắn kết cộng đồng, doanh nghiệp và quốc tế. Các mục tiêu được triển khai theo lộ trình ngắn, trung và dài hạn, với các chỉ số đo lường rõ ràng về diện tích công viên, số lượng công trình nghệ thuật, số khách tham quan, doanh thu ngành dịch vụ nghệ thuật, dự án cộng đồng và nghệ sĩ tham gia.

Côn Đảo, với sự hội tụ của giá trị lịch sử, thiên nhiên nguyên sơ, vị trí chiến lược, cơ sở pháp lý vững chắc và nền tảng thực tiễn về du lịch bền vững, là lựa chọn chiến lược để phát triển mô hình du lịch hòa bình – nghệ thuật. Dự án không chỉ tạo ra giá trị kinh tế mà còn lan tỏa giá trị văn hóa, giáo dục, nhân văn và môi trường, đưa Côn Đảo trở thành hình mẫu du lịch toàn cầu, góp phần bảo tồn thiên nhiên, nuôi dưỡng cộng đồng và thúc đẩy đối thoại hòa bình quốc tế.

Trên thế giới, nhiều địa điểm đã phát triển công viên, bảo tàng và không gian nghệ thuật gắn với ký ức lịch sử, hòa bình và giáo dục, trở thành điểm đến quốc tế với tầm ảnh hưởng sâu rộng. Hiroshima Peace Memorial Park ở Nhật Bản, diện tích khoảng 12 ha, đón hơn 1,5 triệu khách mỗi năm, kết hợp tưởng niệm nạn nhân bom nguyên tử, bảo tàng, tượng đài và các sự kiện quốc tế về giải trừ vũ khí hạt nhân. Tại Mỹ, Grounds for Sculpture (New Jersey, 17 ha) phục vụ hơn 250.000 lượt khách/năm, tập trung vào điêu khắc ngoài trời, workshop, sự kiện nghệ thuật, vận hành theo mô hình phi lợi nhuận nhưng tự chủ tài chính. Olympic Sculpture Park ở Seattle (~3,6 ha) cung cấp nghệ thuật công cộng miễn phí, gắn kết cộng đồng và thiên nhiên, trong khi Jeju 4.3 Peace Park tại Hàn Quốc (33 ha) tưởng niệm thảm sát lịch sử, kết hợp bảo tàng, nghệ thuật thị giác và lễ hội văn hóa. Tại Trung Quốc, Changchun World Sculpture Park (~92 ha) là điểm đến quốc tế với hơn 340 tác phẩm từ 130 quốc gia, phục vụ 2–3 triệu lượt khách/năm, kết hợp triển lãm, hội nghị và dịch vụ phụ trợ. Ở Anh, Yorkshire Sculpture Park (~202 ha) vận hành như “bảo tàng ngoài trời”, hơn 80 tác phẩm điêu khắc, thu hút nửa triệu lượt khách/năm. Inhotim tại Brazil (140 ha công cộng) và Imagine Peace Tower ở Iceland cho thấy những mô hình kết hợp thiên nhiên, nghệ thuật đương đại và thông điệp hòa bình, lan tỏa ra toàn cầu. Tại Pháp, Gardens of Peace biến các chiến trường Thế chiến thành khu vườn hòa bình, nhấn mạnh sự chuyển hóa ký ức đau thương thành cảnh quan nghệ thuật.

Nhìn chung, các mô hình này đều có một số đặc điểm chung: quy mô đủ lớn để thu hút khách quốc tế (thường ≥50 ha), kết hợp ký ức lịch sử, nghệ thuật đương đại và thiên nhiên; vận hành đa nguồn thu, không chỉ từ vé mà còn từ dịch vụ phụ trợ, sự kiện và tài trợ; có thông điệp xuyên biên giới, trở thành biểu tượng toàn cầu về hòa bình, sáng tạo và giáo dục.

Đối với Côn Đảo, những bài học này chỉ ra các hướng đi thực tiễn quan trọng. Trước hết, cần xây dựng Công viên Nghệ thuật Hòa bình với diện tích đủ lớn (tối thiểu 50–100 ha) để có sức hút quốc tế, kết hợp cảnh quan thiên nhiên nguyên sơ, di tích lịch sử, và các tác phẩm nghệ thuật đương đại. Thứ hai, chiến lược tài chính cần đa dạng: vé tham quan kết hợp dịch vụ phụ trợ như ẩm thực, lưu trú, shop nghệ thuật, sự kiện, workshop và lễ hội quốc tế, nhằm đảm bảo doanh thu bền vững. Thứ ba, Côn Đảo cần định hình thông điệp riêng, “hòn đảo ký ức, hòa bình, nghệ thuật và tái sinh”, đồng thời liên kết mạng lưới quốc tế thông qua các tổ chức bảo tàng hòa bình, thành phố vì hòa bình và UNESCO Creative Cities Network. Thứ tư, chiến lược phát triển phải gắn kết các yếu tố du lịch – nghệ thuật – giáo dục – sinh thái, vừa bảo tồn thiên nhiên, vừa tạo trải nghiệm sáng tạo và lan tỏa giá trị nhân văn. Cuối cùng, cơ chế quản lý nên hình thành Ban Điều phối Hòa bình Côn Đảo, kết hợp Nhà nước, nghệ sĩ, doanh nghiệp và cộng đồng, đồng thời xây dựng quỹ quốc tế để huy động nguồn lực, sản xuất các chương trình truyền thông, triển lãm lưu động, tạo sức lan tỏa toàn cầu.

Như vậy, Côn Đảo có thể trở thành biểu tượng hòa bình và tái sinh của khu vực, bổ sung vào mạng lưới các công viên hòa bình thế giới, vừa thu hút khách quốc tế, vừa tích tụ giá trị lịch sử, nghệ thuật, thiên nhiên và cộng đồng, tạo lộ trình phát triển dài hạn, sâu sắc và bền vững.

Đề án “Công viên Nghệ thuật Hòa bình Côn Đảo” thực sự là một bước đột phá trong phát triển văn hóa, du lịch và môi trường ở Việt Nam, bởi nó không chỉ mang tính biểu tượng mà còn có chiều sâu chiến lược lâu dài. Điểm đột phá đầu tiên nằm ở cách tiếp cận đa chiều, kết hợp ký ức lịch sử – nghệ thuật đương đại – thiên nhiên. Khác với những dự án tưởng niệm truyền thống chỉ tập trung vào việc bảo tồn di tích hay ghi nhớ nỗi đau quá khứ, Côn Đảo được định hình thành một không gian sống động, nơi ký ức chiến tranh được chuyển hóa thành trải nghiệm sáng tạo thông qua các tác phẩm điêu khắc, triển lãm tương tác, các workshop nghệ thuật và lễ hội quốc tế. Không gian này vừa giúp người tham quan nhận thức giá trị lịch sử, vừa tạo ra sự chữa lành tinh thần, đồng thời giữ gìn và tôn vinh thiên nhiên nguyên sơ, từ đó tạo ra một trải nghiệm có sức lan tỏa quốc tế.

Điểm đột phá thứ hai là mô hình vận hành đa bên, với sự tham gia đồng thời của Nhà nước, nghệ sĩ, doanh nghiệp và cộng đồng. Thông thường, các điểm đến tưởng niệm hoặc di tích ở Việt Nam phụ thuộc chủ yếu vào ngân sách nhà nước, khiến việc vận hành bị hạn chế về nguồn lực và tính sáng tạo. Ở Côn Đảo, Nhà nước đóng vai trò định hướng và quản lý tổng thể, nghệ sĩ và các tổ chức văn hóa quốc tế sáng tạo nội dung và tổ chức các chương trình nghệ thuật, doanh nghiệp tư nhân đầu tư và khai thác dịch vụ, còn cộng đồng địa phương tham gia trực tiếp vào các hoạt động hướng dẫn, trải nghiệm và dịch vụ du lịch sinh thái. Cơ chế này không chỉ tháo gỡ điểm nghẽn về tài chính, nguồn lực và chuyên môn quản lý, mà còn giúp tối ưu hóa lợi ích kinh tế – xã hội, tạo việc làm và thúc đẩy sự tham gia của người dân.

Đề án còn góp phần rõ ràng vào bảo vệ môi trường và phát triển văn hóa. Cảnh quan thiên nhiên của đảo được bảo tồn nguyên trạng, gắn với các hoạt động giáo dục sinh thái và trải nghiệm văn hóa ngoài trời. Đồng thời, các sự kiện nghệ thuật quốc tế, triển lãm, workshop và lễ hội hòa bình truyền tải thông điệp về hòa bình, hợp tác và tái sinh, giúp Côn Đảo trở thành điểm đến văn hóa mang tầm quốc tế, khẳng định vai trò của Việt Nam trong việc xây dựng giá trị văn hóa, hòa giải và sáng tạo.

Cơ sở thực tiễn để xây dựng đề án “Công viên Nghệ thuật Hòa bình Côn Đảo” là rất rõ ràng. Trước hết, Côn Đảo sở hữu giá trị lịch sử – văn hóa đặc thù, với các di tích nhà tù, mộ liệt sĩ và câu chuyện chiến tranh khốc liệt, tạo nền tảng để phát triển một không gian tưởng niệm có chiều sâu và khác biệt so với các điểm tưởng niệm truyền thống khác. Đồng thời, cảnh quan thiên nhiên nguyên sơ, bờ biển đẹp, rừng ngập mặn và hệ sinh thái đa dạng là lợi thế hiếm có, cho phép kết hợp trải nghiệm nghệ thuật, giáo dục sinh thái và du lịch bền vững.

Tính khẩn cấp và cần thiết của dự án được đặt trong bối cảnh hiện nay: Côn Đảo vẫn còn hạn chế về cơ sở hạ tầng du lịch văn hóa tầm quốc tế và chưa phát huy hết tiềm năng của mình. Thời điểm này, khi Việt Nam đang đẩy mạnh chiến lược phát triển du lịch chất lượng cao, khẳng định hình ảnh văn hóa, hòa bình và sáng tạo của đất nước, dự án sẽ đóng vai trò như một cú hích chiến lược để Côn Đảo vươn ra thị trường quốc tế. Sự kết hợp giữa ký ức lịch sử, nghệ thuật đương đại và thiên nhiên cũng phù hợp với xu hướng toàn cầu về du lịch trải nghiệm, bảo tồn và sáng tạo, giúp Côn Đảo không chỉ ghi dấu lịch sử mà còn trở thành điểm đến mang thông điệp nhân văn, giáo dục và môi trường.

Về mặt bối cảnh chính sách, dự án phù hợp với tinh thần Nghị quyết 57 về đổi mới sáng tạo và Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân. Việc huy động sự tham gia của các bên: Nhà nước định hướng, nghệ sĩ sáng tạo nội dung, doanh nghiệp khai thác dịch vụ, cộng đồng tham gia trực tiếp, là một mô hình hiện đại, hiệu quả, khắc phục những hạn chế truyền thống trong quản lý dự án văn hóa. Hơn nữa, thời điểm hiện nay, với nhu cầu quốc tế hóa văn hóa, tăng cường hội nhập và quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới, việc triển khai dự án là đúng lúc, kịp thời và hợp bối cảnh, vừa tạo giá trị kinh tế – xã hội, vừa phát huy tầm vóc văn hóa, môi trường và nhân văn cho đất nước.

Như vậy, đột phá của đề án không chỉ là ý tưởng mới mẻ hay quy mô lớn, mà nằm ở khả năng kết nối đa bên, tháo gỡ các điểm nghẽn về quản lý, tài chính và nguồn lực, đồng thời tạo ra giá trị nhân văn – môi trường – văn hóa bền vững. Côn Đảo nhờ đó có thể trở thành biểu tượng hòa bình, tái sinh và nghệ thuật của Việt Nam, lan tỏa sức ảnh hưởng ra cộng đồng quốc tế và trở thành một minh chứng sống động cho sự kết hợp giữa ký ức, sáng tạo và phát triển bền vững

Đề án “Công viên Nghệ thuật Hòa bình Côn Đảo” được xác định là một điểm sáng, một bước đột phá trong phát triển sản phẩm du lịch của TP.HCM, bởi nó vừa khai thác giá trị lịch sử – văn hóa, vừa kết hợp nghệ thuật, giáo dục và bảo tồn sinh thái, tạo nên một trải nghiệm du lịch toàn diện, khác biệt và mang tính chiến lược. Sản phẩm này không chỉ là nơi tham quan, mà còn là trung tâm trải nghiệm, nơi truyền tải thông điệp nhân văn về hòa bình, hòa giải và sáng tạo, đồng thời đóng vai trò là cầu nối giữa Việt Nam và cộng đồng quốc tế.

Khái niệm “du lịch hòa bình” mà đề án hướng tới mang đặc trưng riêng biệt: đây là loại hình du lịch gắn với tưởng niệm, giáo dục và trải nghiệm, nhấn mạnh giá trị tinh thần, tri thức và đạo đức xã hội. Du lịch hòa bình khác biệt với du lịch truyền thống ở chỗ không chỉ phục vụ nhu cầu giải trí hay tham quan mà còn tạo ra trải nghiệm sâu sắc về lịch sử, văn hóa và hòa bình. Quy mô của loại hình này có thể từ các khu di tích nhỏ đến các công viên nghệ thuật rộng hàng chục đến hàng trăm ha, phục vụ hàng trăm nghìn đến triệu lượt khách mỗi năm, đảm bảo khả năng giáo dục, lan tỏa và thu hút quốc tế.

Nội dung cốt lõi của du lịch hòa bình bao gồm bốn trụ cột: tưởng niệm và chuyển hóa ký ức, giáo dục và trải nghiệm văn hóa, hòa giải và kết nối cộng đồng, và bảo tồn sinh thái bền vững. Bốn nguyên lý cấu thành của nó là: sự kết hợp chặt chẽ giữa ký ức – hòa bình – giáo dục – sáng tạo; liên ngành trong nghệ thuật, giáo dục, du lịch và môi trường; phân bổ vai trò rõ ràng giữa nhà nước, doanh nghiệp, nghệ sĩ và cộng đồng; cùng với tính bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường. Khái niệm này có liên đới chặt chẽ với các loại hình du lịch văn hóa, du lịch di sản và du lịch trải nghiệm, nhưng vượt trội ở chỗ nhấn mạnh sứ mệnh nhân văn và giáo dục hòa bình.

Về mặt pháp lý, du lịch hòa bình hoàn toàn phù hợp với hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, bao gồm các quy định về bảo tồn di tích, phát triển du lịch bền vững, bảo vệ môi trường và khuyến khích đầu tư tư nhân. Đề án tận dụng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 57 về đổi mới sáng tạo và Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân, đồng thời kết hợp trách nhiệm của các bên liên quan: nhà nước định hướng và giám sát, doanh nghiệp tư nhân đầu tư cơ sở hạ tầng và dịch vụ, nghệ sĩ và tổ chức văn hóa sáng tạo nội dung, cộng đồng địa phương tham gia duy trì cảnh quan và văn hóa, các tổ chức quốc tế hỗ trợ hợp tác và nâng tầm giá trị quốc tế.

Đột phá của đề án nằm ở khả năng kết hợp nhiều giá trị trong một sản phẩm du lịch duy nhất, vừa phát huy tiềm năng thiên nhiên, vừa bảo tồn và chuyển hóa lịch sử, vừa tạo trải nghiệm nghệ thuật và giáo dục, đồng thời thiết lập mạng lưới liên kết quốc tế. Nó tháo gỡ những điểm nghẽn lâu nay của Côn Đảo như khai thác di sản chưa đầy đủ, thiếu sản phẩm du lịch chất lượng cao, chưa tận dụng tối đa tiềm năng thiên nhiên và giá trị lịch sử, đồng thời tạo ra cơ chế vận hành bền vững, hài hòa giữa nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng.

Hướng đi này cũng trực tiếp góp phần vào thông điệp bảo vệ môi trường và phát triển văn hóa của Việt Nam trong tương lai. Bằng cách kết hợp du lịch – giáo dục – nghệ thuật – sinh thái, dự án không chỉ thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân và đổi mới sáng tạo, mà còn định vị Việt Nam là quốc gia có tiếng nói về hòa giải, hòa hợp và sáng tạo văn hóa trên bản đồ quốc tế. Chính vì vậy, việc triển khai đề án vào thời điểm hiện tại là khẩn thiết, cần thiết và hoàn toàn phù hợp với bối cảnh xã hội – kinh tế – văn hóa, mang tính cấp bách nhưng cũng chiến lược lâu dài, đặt nền móng cho một sản phẩm du lịch mang tầm quốc tế, đồng thời nâng tầm giá trị nhân văn của Côn Đảo và TP.HCM

Mục tiêu tăng trưởng khách du lịch của Côn Đảo, gắn với chiến lược phát triển du lịch hòa bình, không chỉ nhằm nâng cao số lượng lượt khách mà còn hướng tới tạo ra nguồn khách tới hạn – tức là một lượng khách ổn định, quốc tế, có khả năng chi tiêu cao và tham gia vào các trải nghiệm sâu sắc về văn hóa, lịch sử, nghệ thuật và sinh thái. Trong giai đoạn đầu, mục tiêu có thể đạt 500.000–1 triệu lượt khách/năm trong vòng 10–15 năm, với trọng tâm là du khách quốc tế, học sinh – sinh viên, nhà nghiên cứu, tổ chức phi chính phủ và đoàn ngoại giao, nhằm thiết lập vị thế Côn Đảo như điểm đến hòa bình hàng đầu khu vực Đông Nam Á và tiến tới tầm ảnh hưởng quốc tế.

Để đạt được mục tiêu này, Côn Đảo cần xây dựng cơ sở vật chất và hệ sinh thái dịch vụ đồng bộ. Về cơ sở hạ tầng, cần có hệ thống đường giao thông nội đảo chất lượng cao, bến cảng và sân bay phù hợp, các tuyến đi bộ, khu trưng bày ngoài trời và bảo tàng, trung tâm hội thảo, các khu lưu trú đa dạng từ khách sạn 4–5 sao đến homestay gắn với cộng đồng, cùng các điểm ăn uống, dịch vụ giải trí, cửa hàng lưu niệm và không gian thiền định – nghệ thuật. Về hệ sinh thái dịch vụ, cần hình thành các tour trải nghiệm có hướng dẫn chuyên nghiệp, workshop nghệ thuật, chương trình giáo dục, các lễ hội văn hóa, và hệ thống quản lý du lịch bền vững, thân thiện môi trường. Tất cả các thành tố này phải được kết nối mạch lạc, đảm bảo du khách có trải nghiệm liên tục, đồng thời tạo ra doanh thu đa nguồn để dự án tự duy trì tài chính.

Trong bối cảnh thế giới đầy bất an, từ biến đổi khí hậu đến xung đột chính trị, du lịch hòa bình tại Côn Đảo có thể tạo ra hiệu ứng lan tỏa lớn, vừa về kinh tế vừa về xã hội và nhân văn. Về kinh tế, dự án sẽ thu hút đầu tư tư nhân, khuyến khích doanh nghiệp tham gia, tạo việc làm địa phương, thúc đẩy các ngành phụ trợ như ẩm thực, thủ công mỹ nghệ, vận tải và dịch vụ. Về xã hội và văn hóa, công viên hòa bình sẽ lan tỏa thông điệp hòa giải, hợp tác quốc tế và bảo vệ thiên nhiên, đồng thời nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị lịch sử, tôn giáo, nghệ thuật và sinh thái. Côn Đảo sẽ trở thành một mạng lưới điểm đến toàn cầu, kết nối với các công viên hòa bình, bảo tàng và trung tâm nghệ thuật quốc tế, tạo sức hút và uy tín lâu dài.

Chiến lược truyền thông cho Côn Đảo cần xây dựng trên ba trụ cột chính. Thứ nhất, xây dựng thương hiệu quốc tế: Côn Đảo – “Đảo Hòa bình và Nghệ thuật” – với logo, khẩu hiệu, tác phẩm biểu tượng riêng và bộ câu chuyện truyền thông gắn với lịch sử, thiên nhiên và sáng tạo. Thứ hai, lan tỏa nội dung thông qua nhiều kênh: báo chí quốc tế, mạng xã hội, livestream, phim tài liệu, triển lãm du động và hợp tác với các tổ chức quốc tế như UNESCO, INMP, Mayors for Peace. Thứ ba, tổ chức sự kiện định kỳ và lễ hội quốc tế: Peace & Art Biennale, các workshop nghệ thuật – giáo dục, sự kiện thiền – sinh thái để tạo điểm nhấn định kỳ, thu hút cộng đồng quốc tế và thiết lập mạng lưới đại sứ hòa bình, nghệ sĩ và trí thức toàn cầu.

Để thích ứng với khái niệm du lịch hòa bình, quy hoạch Côn Đảo cần được điều chỉnh theo các hướng sau: mở rộng khu vực đất dành cho công viên nghệ thuật, bảo tàng và khu trưng bày ngoài trời; phân vùng hợp lý giữa khu bảo tồn thiên nhiên, khu lịch sử và khu dịch vụ; ưu tiên cơ sở hạ tầng thân thiện môi trường; bố trí các tuyến tham quan trải nghiệm liên hoàn, an toàn và hấp dẫn; và thiết lập cơ chế quản lý liên ngành, bao gồm nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng và nghệ sĩ. Ngoài ra, quy hoạch cần tích hợp các yếu tố quốc tế như tiêu chuẩn bảo tồn, trải nghiệm giáo dục và nghệ thuật, đảm bảo tính bền vững, hấp dẫn và khả năng lan tỏa toàn cầu.

Như vậy, chiến lược tăng trưởng khách du lịch hòa bình tại Côn Đảo không chỉ là một sản phẩm du lịch đặc thù, mà còn là một cơ chế liên kết toàn diện, tháo gỡ các điểm nghẽn về hạ tầng, dịch vụ và định vị quốc tế, đồng thời củng cố thông điệp về hòa bình, sáng tạo, bền vững và hợp tác quốc tế, phù hợp với xu hướng phát triển du lịch có giá trị nhân văn trong thế kỷ 21

Đối với cấp Trung ương, để triển khai hiệu quả loại hình du lịch hòa bình tại Côn Đảo, cần có những cơ chế thí điểm rõ ràng, đồng bộ và mang tính chiến lược, nhằm tháo gỡ các rào cản pháp lý, tài chính và vận hành. Trước hết, Trung ương cần ban hành cơ chế thí điểm đón tiếp khách quốc tế, cho phép Côn Đảo thực hiện các quy trình thông thoáng nhưng vẫn an toàn về xuất nhập cảnh, visa và kiểm soát an ninh. Điều này giúp hòn đảo có thể trở thành điểm đến hòa bình mang tầm quốc tế mà không bị bó buộc bởi các quy định cứng nhắc áp dụng chung cho các khu du lịch nội địa khác.

Về lưu trú và dịch vụ liên quan, cần có cơ chế thí điểm cho phép hình thành các khu lưu trú đặc thù, kết hợp với nghệ thuật, thiền, trải nghiệm sinh thái, và du lịch văn hóa. Những khu này có thể vận hành theo cơ chế linh hoạt trong cấp phép, quản lý chất lượng dịch vụ, giá cả và an toàn, nhưng vẫn tuân thủ các chuẩn mực về môi trường và bảo tồn di sản.

Về nội dung nghệ thuật và kết nối toàn cầu, Trung ương cần cho phép Côn Đảo thực hiện thí điểm các chương trình trưng bày, triển lãm, lễ hội nghệ thuật quốc tế mà không bị hạn chế quá mức bởi các quy định hiện hành về biểu diễn, xuất bản, bản quyền hay bảo vệ di sản. Cơ chế này cần đảm bảo các chương trình nghệ thuật được kiểm soát để phù hợp với thông điệp hòa bình và văn hóa Việt Nam, nhưng đồng thời đủ linh hoạt để thu hút nghệ sĩ, chuyên gia và tổ chức quốc tế tham gia, từ đó xây dựng thương hiệu Côn Đảo trên bản đồ nghệ thuật toàn cầu.

Về vốn và nguồn lực khác, Trung ương nên chỉ đạo thành lập Quỹ Hòa bình Côn Đảo, huy động nguồn lực từ ngân sách nhà nước, quỹ quốc tế, tài trợ doanh nghiệp, đóng góp cộng đồng và các chương trình CSR. Cơ chế thí điểm cần cho phép quỹ này có quyền linh hoạt trong đầu tư, tổ chức sự kiện, phát triển cơ sở hạ tầng và hỗ trợ các dự án sáng tạo đi kèm, đảm bảo tính bền vững tài chính.

Ngoài ra, Trung ương cần hướng dẫn cơ chế hợp tác quốc tế: ký kết thỏa thuận song phương và đa phương với các công viên hòa bình, bảo tàng quốc tế, mạng lưới nghệ thuật và các tổ chức UNESCO, để Côn Đảo có thể tham gia các sự kiện, triển lãm lưu động, trao đổi nghệ sĩ và chia sẻ kinh nghiệm vận hành.

Chiến lược phát triển du lịch hòa bình tại Côn Đảo cần được tiếp cận một cách nhẹ nhàng nhưng kiên định, như dòng chảy của lịch sử và thiên nhiên nơi đây. Ở cấp UBND TP.HCM, kiến nghị là cần nhìn nhận Côn Đảo không chỉ là một điểm đến du lịch, mà còn là một biểu tượng văn hóa, hòa bình và tái sinh. UBND cần phê duyệt đề án tổng thể, định hướng quy hoạch, huy động nguồn lực, và bảo đảm kết nối hạ tầng từ TP.HCM ra Côn Đảo, từ cảng biển đến sân bay, để hòn đảo nhỏ có thể đón những bước chân khách quốc tế một cách an toàn và thuận tiện. Đồng thời, UBND cần tích hợp dự án vào chiến lược phát triển du lịch và quy hoạch đô thị, kết nối tour quốc tế với các điểm du lịch khác trong vùng, và thiết lập Quỹ Hòa bình Côn Đảo, huy động vốn từ doanh nghiệp tư nhân, cộng đồng và tài trợ quốc tế, tạo nền tảng tài chính vững chắc cho các hoạt động lâu dài.

Ở cấp Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, vai trò là người định hướng tiêu chuẩn văn hóa – du lịch và kết nối quốc tế. Bộ cần công nhận Côn Đảo là điểm đến du lịch hòa bình, đồng thời hướng dẫn các tiêu chuẩn vận hành bảo tàng, công viên nghệ thuật và các khu trưng bày ngoài trời, đảm bảo phù hợp với pháp luật về di sản văn hóa và bảo tồn môi trường. Bộ cũng có thể hỗ trợ kết nối Côn Đảo với mạng lưới bảo tàng hòa bình quốc tế, các công viên nghệ thuật và UNESCO Creative Cities, đồng thời xúc tiến truyền thông quốc tế, giới thiệu Côn Đảo là một điểm đến hòa bình đặc thù của châu Á, nơi ký ức, nghệ thuật và thiên nhiên hội tụ.

Ở cấp Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP.HCM, cần cụ thể hóa các chương trình triển khai: xây dựng kế hoạch bảo trì, quản lý công viên nghệ thuật, tổ chức lễ hội, workshop, các sự kiện trải nghiệm nghệ thuật – thiền – sinh thái. Sở cần kết nối các doanh nghiệp địa phương để phát triển hệ sinh thái dịch vụ – từ lưu trú, ẩm thực, vận chuyển, đến sản phẩm lưu niệm – bảo đảm mỗi trải nghiệm của du khách là một hành trình đầy cảm xúc, an toàn và bền vững.

Và ở cấp lãnh đạo đặc khu Côn Đảo, kiến nghị tập trung vào việc vận hành thực tiễn: thành lập Ban Quản lý Hòa bình Côn Đảo với sự tham gia của chính quyền địa phương, nghệ sĩ, doanh nghiệp, cộng đồng và các đối tác quốc tế. Ban quản lý sẽ đảm bảo từng chi tiết từ việc bảo tồn thiên nhiên, bảo quản nghệ thuật, tổ chức sự kiện, đến giao tiếp với khách quốc tế, để Côn Đảo thực sự trở thành “thủ đô nghệ thuật ngoài trời” của hòa bình, nơi ký ức đau thương được chuyển hóa, nơi thiên nhiên và văn hóa cùng tái sinh.

Nhìn tổng thể, từng cấp quản lý, từ TP.HCM, Bộ, Sở đến đặc khu Côn Đảo, đều có vai trò rõ ràng, mạch lạc và bổ sung cho nhau. Khi các kiến nghị này được thực hiện, Côn Đảo sẽ trở thành điểm sáng, nơi tinh thần hòa bình, nghệ thuật và phát triển bền vững gặp nhau, vừa tạo hiệu ứng lan tỏa trong nước, vừa kết nối mạnh mẽ với mạng lưới toàn cầu, trong bối cảnh thế giới đầy biến động và bất ổn. ĐỀ CƯƠNG ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN DU LỊCH HÒA BÌNH TẠI CÔN ĐẢO
I. Tên đề án

“Công viên Nghệ thuật Hòa bình Côn Đảo – Peace Art Park Con Dao”

II. Lý do và cơ sở xây dựng đề án

Côn Đảo, với bề dày lịch sử, giá trị di sản chiến tranh và thiên nhiên đa dạng, là nơi hội tụ đầy đủ các yếu tố để trở thành điểm đến du lịch mang tính hòa bình, nghệ thuật và tái sinh. Trong bối cảnh thế giới nhiều bất ổn, nhu cầu du lịch trải nghiệm có giá trị tinh thần và giáo dục tăng cao.

Cơ sở thực tiễn: Các mô hình công viên hòa bình – nghệ thuật quốc tế như Hiroshima Peace Memorial Park (Nhật Bản), Jeju 4.3 Peace Park (Hàn Quốc), Inhotim (Brazil), Yorkshire Sculpture Park (Anh) đã chứng minh rằng kết hợp ký ức lịch sử – nghệ thuật – thiên nhiên tạo sức hút lớn, doanh thu bền vững, đồng thời nâng tầm văn hóa quốc gia.

Tính cấp thiết: Du lịch Côn Đảo hiện chủ yếu nghỉ dưỡng biển – đảo. Loại hình du lịch hòa bình bổ sung sản phẩm đột phá, thu hút khách quốc tế, trí thức, học sinh – sinh viên, và các đoàn ngoại giao.

Phù hợp thời điểm: Việt Nam thực hiện Nghị quyết 57 về đổi mới sáng tạo và Nghị quyết 68 về thúc đẩy kinh tế tư nhân. Đề án này tận dụng cơ hội sáng tạo, kêu gọi vốn tư nhân, đồng thời quảng bá hình ảnh Việt Nam là quốc gia hòa bình, sáng tạo và có trách nhiệm với môi trường.

Cơ sở khoa học: Nghiên cứu về tâm lý du lịch, văn hóa ký ức, nghệ thuật trải nghiệm, và mô hình công viên hòa bình quốc tế cho thấy rằng các không gian giáo dục – nghệ thuật ngoài trời tăng trải nghiệm du lịch, thu hút khách quốc tế, đồng thời tạo tác động xã hội lâu dài.

Cơ sở pháp lý:

Luật Du lịch, Luật Di sản Văn hóa, Luật Bảo vệ môi trường.

Quy chế đặc khu Côn Đảo và cơ chế thí điểm về đón tiếp khách quốc tế, lưu trú đặc thù, tổ chức sự kiện nghệ thuật.

Nghị quyết 57/68 về đổi mới sáng tạo và thúc đẩy kinh tế tư nhân.

III. Mục tiêu đề án

Mục tiêu chung: Xây dựng Côn Đảo trở thành điểm đến quốc tế về du lịch hòa bình và nghệ thuật, kết hợp bảo tồn thiên nhiên, ký ức lịch sử và sáng tạo văn hóa.

Mục tiêu cụ thể:

Thu hút 500.000 – 1 triệu lượt khách/năm trong vòng 10–15 năm.

Xây dựng cơ sở vật chất và hệ sinh thái dịch vụ đồng bộ: bảo tàng, triển lãm ngoài trời, nhà trưng bày, trung tâm nghệ thuật, lưu trú, ẩm thực, workshop, hội nghị.

Thiết lập thông điệp hòa bình, tái sinh và kết nối quốc tế.

Huy động nguồn lực tài chính bền vững: ngân sách nhà nước, quỹ quốc tế, CSR doanh nghiệp, đóng góp cộng đồng.

IV. Đối tượng thụ hưởng

Khách du lịch: quốc tế, nội địa, học sinh – sinh viên, trí thức, các đoàn ngoại giao.

Cộng đồng địa phương: tạo việc làm, phát triển dịch vụ, tham gia quản lý và bảo vệ thiên nhiên.

Doanh nghiệp tư nhân: khai thác dịch vụ, tài trợ nghệ thuật, hợp tác phát triển hạ tầng.

Quốc tế: mạng lưới bảo tàng hòa bình, nghệ sĩ, nhà ngoại giao, tổ chức văn hóa – giáo dục.

V. Khái niệm du lịch hòa bình

Du lịch hòa bình là loại hình kết hợp tưởng niệm, giáo dục, trải nghiệm nghệ thuật và bảo tồn thiên nhiên, nhằm chuyển hóa ký ức lịch sử thành giá trị giáo dục, tinh thần và sáng tạo.

Đặc tính: giá trị nhân văn, tương tác đa chiều, liên đới với du lịch văn hóa và sinh thái.

Nguyên lý cấu thành: hòa bình – nghệ thuật – tái sinh.

Tương thích pháp lý: luật Du lịch, Di sản văn hóa, Bảo vệ môi trường, cơ chế đặc khu.

Vai trò các bên: nhà nước (định hướng, quản lý), doanh nghiệp (đầu tư, vận hành), nghệ sĩ – cộng đồng (sáng tạo, quản lý), quốc tế (liên kết, hợp tác).

VI. Quy mô và cơ sở vật chất

Diện tích: 100–150 ha (khu bảo tàng, triển lãm ngoài trời, sinh thái, lưu trú, ẩm thực).

Cơ sở vật chất: bảo tàng hòa bình, khu nghệ thuật ngoài trời, nhà triển lãm tạm thời, trung tâm hội nghị và workshop, khu thiền – trải nghiệm thiên nhiên, quầy thông tin, trung tâm truyền thông.

Hệ sinh thái dịch vụ: nhà hàng, cửa hàng lưu niệm, khu lưu trú đặc thù, dịch vụ lễ hội và workshop.

VII. Nguồn lực tài chính

Tổng vốn đầu tư dự kiến: 300–500 triệu USD, gồm:

Ngân sách nhà nước: 30–40% cho hạ tầng cơ bản, bảo tàng, khu sinh thái.

Vốn tư nhân/Doanh nghiệp: 40–50% cho dịch vụ lưu trú, ẩm thực, sự kiện, gallery.

Tài trợ quốc tế, quỹ văn hóa – hòa bình: 10–20% cho nghệ thuật, triển lãm, lễ hội.

Đóng góp cộng đồng: 1–2% (các dự án xã hội, giáo dục).

VIII. Thời gian dự kiến

Giai đoạn 1 (1–3 năm): chuẩn bị pháp lý, quy hoạch chi tiết, thiết kế kiến trúc, huy động vốn, xây dựng hạ tầng cơ bản và khu bảo tàng.

Giai đoạn 2 (4–6 năm): triển khai nghệ thuật ngoài trời, xây dựng dịch vụ lưu trú, ẩm thực, workshop, mở cửa giai đoạn thử nghiệm.

Giai đoạn 3 (7–10 năm): hoàn thiện hệ sinh thái dịch vụ, tổ chức lễ hội quốc tế, kết nối mạng lưới bảo tàng hòa bình toàn cầu, đạt công suất tối đa khách tham quan.

IX. Giá trị đạt được

Về văn hóa – giáo dục: chuyển hóa ký ức lịch sử thành giá trị giáo dục và sáng tạo, nâng cao nhận thức về hòa bình và tái sinh.

Về kinh tế – xã hội: tạo việc làm, phát triển dịch vụ địa phương, thu hút vốn tư nhân và quốc tế, doanh thu dự kiến 20–30 triệu USD/năm.

Về môi trường – bền vững: bảo tồn thiên nhiên, kết hợp du lịch sinh thái, giáo dục cộng đồng về môi trường.

Về quốc tế – ngoại giao văn hóa: xây dựng thương hiệu hòa bình, tham gia mạng lưới công viên hòa bình toàn cầu, quảng bá Việt Nam là điểm đến sáng tạo và nhân văn.

X. Chiến lược vận hành

Ban Quản lý Công viên Hòa bình Côn Đảo: nhà nước, nghệ sĩ, doanh nghiệp, cộng đồng.

Quỹ Hòa bình Côn Đảo: huy động ngân sách nhà nước, tài trợ quốc tế, CSR doanh nghiệp, đóng góp cộng đồng.

Cơ chế thí điểm Trung ương: đón tiếp khách quốc tế, lưu trú đặc thù, tổ chức sự kiện nghệ thuật, kết nối quốc tế, hỗ trợ vốn.

Cơ chế địa phương: phối hợp với UBND TP.HCM và Ban Quản lý đặc khu Côn Đảo về quy hoạch, quản lý đất đai, dịch vụ và môi trường.

XI. Chiến lược liên kết quốc tế

Tham gia International Network of Museums for Peace, Mayors for Peace, UNESCO Creative Cities Network.

Ký kết hợp tác song phương, đa phương với Hiroshima, Jeju, Kigali, New York, Ypres.

Triển khai chương trình trao đổi nghệ sĩ, triển lãm lưu động, lễ hội quốc tế. XII. Trách nhiệm các bên liên quan

Trung ương – Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VHTTDL):
Bộ VHTTDL là cơ quan đầu mối hướng dẫn, chỉ đạo tổng thể, đảm bảo đề án phù hợp với luật pháp, chiến lược phát triển du lịch quốc gia và các nghị quyết 57, 68. Bộ có trách nhiệm:

Ban hành các cơ chế thí điểm về đón tiếp khách quốc tế, kiểm soát nội dung nghệ thuật, lưu trú đặc thù, tổ chức lễ hội quốc tế.

Hướng dẫn tiêu chuẩn kiến trúc, bảo tàng, nghệ thuật ngoài trời và hệ sinh thái dịch vụ.

Phối hợp với các Bộ ngành khác về an ninh, môi trường, giao thông, y tế, đảm bảo an toàn cho khách và cộng đồng.

Thời gian triển khai: 6–12 tháng để xây dựng hướng dẫn chi tiết, cơ chế thí điểm, ban hành văn bản chỉ đạo.

Đầu mối trực tiếp: Vụ Du lịch, Vụ Văn hóa, Văn phòng Bộ, dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng.

UBND TP.HCM:
Là cơ quan quản lý địa phương, chịu trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện triển khai trên thực tế. Cụ thể:

Ban hành quyết định phê duyệt quy hoạch chi tiết khu công viên hòa bình.

Đảm bảo quỹ đất, kết nối hạ tầng giao thông, điện, nước, viễn thông.

Huy động nguồn lực tài chính bổ sung, phối hợp doanh nghiệp và quỹ quốc tế.

Thời gian: 3–6 tháng sau khi Bộ VHTTDL ban hành hướng dẫn.

Đầu mối trực tiếp: Ban Quản lý Đặc khu Côn Đảo, Sở Du lịch TP.HCM, Sở Xây dựng, Sở Tài chính.

Ban Quản lý Đặc khu Côn Đảo:

Triển khai giám sát, quản lý hạ tầng, dịch vụ, an ninh trong khu vực công viên.

Phối hợp với nghệ sĩ, cộng đồng và doanh nghiệp trong việc quản lý nội dung nghệ thuật, tổ chức sự kiện, bảo tồn môi trường.

Báo cáo tiến độ và kết quả định kỳ cho UBND TP.HCM và Bộ VHTTDL.

Đầu mối: Trưởng Ban Quản lý Đặc khu, các phòng chuyên môn về du lịch, văn hóa, quản lý đất đai.

Doanh nghiệp và nhà đầu tư tư nhân:

Đảm nhận đầu tư dịch vụ lưu trú, ẩm thực, sự kiện, shop nghệ thuật, bảo đảm chất lượng đồng bộ, bền vững.

Hợp tác với Ban Quản lý, nghệ sĩ và cộng đồng để triển khai các chương trình trải nghiệm sáng tạo và giáo dục.

Nghệ sĩ, trí thức, cộng đồng địa phương:

Tham gia sáng tạo nghệ thuật, tổ chức workshop, lễ hội, góp phần xây dựng bản sắc và thông điệp hòa bình Côn Đảo.

Tham gia giám sát môi trường, duy trì giá trị văn hóa – thiên nhiên.

XIII. Kiến nghị với Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch

Hướng dẫn chi tiết triển khai đề án:

Xây dựng cẩm nang quy chuẩn du lịch hòa bình: gồm tiêu chuẩn bảo tàng, triển lãm, trải nghiệm ngoài trời, hạ tầng dịch vụ, quản lý khách quốc tế.

Đề xuất cơ chế thí điểm cho lưu trú đặc thù, tổ chức lễ hội nghệ thuật, kết nối quốc tế.

Ban hành hướng dẫn về cơ chế tài chính, hỗ trợ vốn, huy động tài trợ quốc tế.

Đầu mối triển khai cụ thể:

Vụ Du lịch: Chủ trì nội dung hướng dẫn về du lịch, quy mô, hệ sinh thái dịch vụ.

Vụ Văn hóa: Chủ trì tiêu chuẩn nghệ thuật, bảo tàng, triển lãm, workshop.

Văn phòng Bộ: Theo dõi tiến độ, tổng hợp báo cáo cho Bộ trưởng.

Thời gian thực hiện: 6–12 tháng kể từ khi đề xuất được Bộ trưởng phê duyệt.

Cơ chế phối hợp liên ngành:

Bộ VHTTDL chủ trì phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ GTVT để đảm bảo an ninh, đầu tư, hạ tầng, truyền thông quốc tế.

Thiết lập mạng lưới liên kết quốc tế, kết nối Côn Đảo với các công viên hòa bình và tổ chức nghệ thuật toàn cầu.

Giám sát và đánh giá:

Hàng năm, Bộ VHTTDL phối hợp UBND TP.HCM đánh giá tiến độ, hiệu quả kinh tế – văn hóa – xã hội, điều chỉnh cơ chế, quy chuẩn phù hợp.

Thường niên tổ chức hội thảo quốc tế về du lịch hòa bình, tạo sức lan tỏa và học hỏi kinh nghiệm.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch  trả lời
- Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam đánh giá đề án “Khởi nghiệp Dự án du lịch hòa bình thông qua nghệ thuật tại Côn Đảo” có những điểm mới, mang tính sáng tạo, kịp thời nắm bắt các lợi thế tiềm ẩn của các giá trị lịch sử, cách mạng, con người Việt Nam để hình thành sản phẩm mang tính cá biệt và có tính gây dựng thương hiệu tích cực cho du lịch Việt Nam. Tuy nhiên, bố cục của đề án không rõ ràng, do đó chưa có cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn để xây dựng đề án.
- Ngoài ra, cần rà soát quy hoạch và đề án phát triển huyện Côn Đảo trước đây và tính toán các nội dung đề xuất về nguồn lực và thời gian để có tính thuyết phục hơn. Nhóm tác giả cần nghiên cứu sâu hơn để xây dựng kế hoạch triển khai với lộ trình cụ thể, nghiên cứu bổ sung các kiến nghị của đề án đối với các bên liên quan. Về mục tiêu tăng trưởng khách du lịch, cần tính toán và xem xét lại mục tiêu tăng trưởng khách du lịch trong giai đoạn tới, đánh giá hiện trạng cơ sở vật chất phục vụ khách du lịch lưu trú tại Côn Đảo để lượng khách đến Côn Đảo cần phù hợp với sức chứa của điểm đến, đảm bảo mục tiêu phát triển du lịch bền vững.
Kiến nghị cùng chủ đề
Xây dựng nhà không phép
0 lượt xem
KÍNH GỬI SỞ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TPHCM : KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT ĐỀ ÁN NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP XỬ LÝ KHOẢNG HỞ, ĐIỂM NGHẼN CỦA NGHỊ QUYẾT 57
0 lượt xem
Nâng cấp tính năng tự động trích yếu nội dung văn bản trong thao tác dự thảo văn bản đi trên Hệ thống thông tin điều hành tác nghiệp của Đảng
0 lượt xem
KÍNH GỬI UBND TPHCM VÀ SỞ NỘI VỤ : KIẾN NGHỊ TRIỂN KHAI THÍ ĐIỂM MÔ HÌNH “TRUNG TÂM ĐỒNG HÀNH – SÁNG TẠO – PHÁT TRIỂN” TẠI TP.HCM THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT 57
0 lượt xem
Kính gửi Bộ tư pháp : Kiến nghị về việc xây dựng “Khung tư duy và phương pháp làm luật từ cơ sở” – hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị
0 lượt xem